Giảm bạch cầu trung tính: phân tích triệu chứng

2023-04-26 10:13 AM

Ba quá trình cơ bản dẫn đến giảm bạch cầu trung tính mắc phải bao gồm giảm sản xuất, tăng cường phá hủy ngoại vi và tổng hợp bạch cầu trung tính trong nội mạc mạch máu hoặc mô.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Giảm bạch cầu trung tính được định nghĩa là số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối (ANC) <1.500 tế bào/L. Giảm bạch cầu trung tính nghiêm trọng được định nghĩa là ANC có <500 tế bào/L. Nguy cơ nhiễm trùng tăng lên với mức độ <1.000 tế bào/<L và phụ thuộc vào nguyên nhân và thời gian giảm bạch cầu trung tính. Vì ANC chỉ chiếm 3% số lượng bạch cầu trung tính của cơ thể, giảm bạch cầu trung tính khi chức năng tủy được bảo tồn sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nhiễm trùng trong trường hợp giảm bạch cầu trung tính nghiêm trọng thường do hệ thực vật bình thường gây ra.

Nguyên nhân

Giảm bạch cầu trung tính có thể bẩm sinh hoặc mắc phải. Ba quá trình cơ bản dẫn đến giảm bạch cầu trung tính mắc phải bao gồm (a) giảm sản xuất, (b) tăng cường phá hủy ngoại vi và (c) tổng hợp bạch cầu trung tính trong nội mạc mạch máu hoặc mô. Nhiễm trùng thường gây giảm bạch cầu trung tính mắc phải.

ANC có thể khác nhau tùy theo chủng tộc và dân tộc. Người da đen và một số người Do Thái thường có ANC thấp tới 1.500/L và không có biểu hiện lâm sàng.

Đánh giá đặc điểm

Nên khai thác tiền sử nhiễm trùng thường xuyên hoặc tái phát, cũng như các triệu chứng sốt, ớn lạnh, đổ mồ hôi ban đêm, dễ chảy máu hoặc bầm tím và sụt cân ngoài ý muốn. Chủng tộc, dân tộc, các loại thuốc trước đây và hiện tại, lạm dụng rượu, tiếp xúc với chất độc và tiền sử gia đình nên được tìm kiếm.

Khoang miệng nên được khám phá, vì viêm nướu và viêm miệng có thể là những triệu chứng đầu tiên của giảm bạch cầu trung tính. Có thể có lách to và hạch to. Ở trẻ em, bằng chứng về sự chậm phát triển có thể chỉ ra một rối loạn bẩm sinh. Kiểm tra các xoang, tai và vùng quanh trực tràng để phát hiện nhiễm trùng đang hoạt động.

Xét nghiệm phết máu ngoại vi và phân biệt thủ công xác nhận chẩn đoán giảm bạch cầu trung tính. Nếu pancytopenia tồn tại, cần phải sinh thiết tủy xương. Nếu bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính nhẹ và không bị nhiễm trùng, có thể thực hiện các phép đo ANC tối đa ba lần mỗi tuần để theo dõi quá trình giải quyết hoặc chẩn đoán giảm bạch cầu trung tính theo chu kỳ. Nếu số lượng bình thường hóa, việc giám sát trong năm tới nên bao gồm xét nghiệm công thức máu toàn bộ khi có dấu hiệu nhiễm trùng đầu tiên để tìm kiếm sự tái phát. Nếu giảm bạch cầu trung tính không giải quyết được sau 8 tuần, nhiễm trùng tái phát phát triển hoặc số lượng ANC (<1.000/L) thấp hơn được ghi nhận, thì cần phải điều trị thêm. Các xét nghiệm bổ sung trong phòng thí nghiệm có thể bao gồm sinh thiết tủy xương (ngay cả khi không phải pancytopenic), kháng thể kháng nhân, nồng độ bổ thể, yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng bạch cầu trung tính, số lượng hồng cầu lưới, lactate dehydrogenase, tốc độ lắng hồng cầu, hormone kích thích tuyến giáp, globulin miễn dịch, huyết thanh học virus gây suy giảm miễn dịch ở người, vitamin Nồng độ B12 và folate, và nuôi cấy tủy xương.

Giảm bạch cầu di truyền là rất hiếm. Hai dạng chính bao gồm giảm bạch cầu trung tính theo chu kỳ và giảm bạch cầu trung tính bẩm sinh nghiêm trọng (hội chứng Kostmann). Đột biến gen ELA2 và HAX1 có liên quan đến các rối loạn này.

Biểu hiện lâm sàng

Các dấu hiệu và triệu chứng thường dựa trên nguyên nhân cơ bản của giảm bạch cầu trung tính; tuy nhiên, giảm bạch cầu trung bình đến nặng có thể xuất hiện khi nhiễm trùng tái phát. Phản ứng viêm giảm dần, giảm các dấu hiệu X quang, dấu hiệu phúc mạc, đái mủ hoặc sốt. Do đó, tình trạng nhiễm trùng của bệnh nhân có thể không bị phát hiện cho đến cuối khóa học.

Điều trị ban đầu

Sốt và giảm bạch cầu cần được điều trị ngay lập tức bằng kháng sinh theo kinh nghiệm.

Đánh giá rủi ro

Việc xác định rủi ro của bệnh nhân sẽ quyết định điều trị nội trú so với điều trị ngoại trú và điều trị bằng đường uống so với đường tiêm. Bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính trong thời gian ngắn (<7 ngày) và không có bệnh đi kèm thường được coi là có nguy cơ thấp. Bệnh nhân bị giảm bạch cầu trung tính trong thời gian dài hơn, mắc bệnh đi kèm, ANCs <100 tế bào/μL hoặc giảm bạch cầu trung tính do hóa trị liệu được coi là có nguy cơ cao.

Chỉ định dùng fluoroquinolone dự phòng ở những bệnh nhân có nguy cơ cao.

Trị liệu dài hạn

Điều trị bằng yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt (G-CSF) được chỉ định trong trường hợp giảm bạch cầu trung tính bẩm sinh nghiêm trọng và giảm bạch cầu trung tính do hóa trị liệu. Cấy ghép tế bào gốc có thể cung cấp phương pháp điều trị chữa bệnh cho những người đáp ứng kém với G-CSF.

Bài viết cùng chuyên mục

Điện tâm đồ trong nhồi máu cơ tim có ST chênh lên

ST chênh lên ở các chuyển đạo V2-V5 có thể là dấu hiệu bình thường của tái cực sớm lành tính (‘high take-off’) và, nếu không có điện tâm đồ trước đó có thể gây ra chẩn đoán nhầm.

Tiểu đêm: phân tích triệu chứng

. Sinh lý bệnh cơ bản có thể phụ thuộc vào một số vấn đề hoàn toàn là cơ học và đối với những vấn đề khác có thể liên quan đến các cơ chế nội tiết tố thần kinh phức tạp.

Viêm mũi: phân tích triệu chứng

Viêm mũi dị ứng là kết quả của tình trạng viêm niêm mạc do dị ứng, viêm mũi không dị ứng không phụ thuộc vào immunoglobulin E (IgE) hoặc quá trình viêm chủ yếu.

Vàng da: đánh giá cận lâm sàng theo bệnh cảnh lâm sàng

Cân nhắc huyết tán ở những bệnh nhân vàng da mà không có đặc điểm bệnh gan kèm theo và có các bằng chứng của tăng phá vỡ hồng cầu, bất thường về hình ảnh hồng cầu (mảnh vỡ hồng cầu), có thể có bằng chứng tăng sản xuất hồng cầu.

Mệt mỏi và Hội chứng mệt mỏi mãn tính

Acyclovir, globulin miễn dịch tiêm tĩnh mạch, nystatin, và liều thấp hydrocortisone, fludrocortisone không cải thiện triệu chứng

Giảm cân ngoài ý muốn: phân tích triệu chứng để chẩn đoán và điều trị

Các vấn đề gây ra giảm cân thông qua một hoặc nhiều cơ chế, lượng calo hấp thụ không đủ, nhu cầu trao đổi chất quá mức hoặc mất chất dinh dưỡng qua nước tiểu hoặc phân.

Rối loạn cương dương: phân tích triệu chứng

Rối loạn cương dương, trước đây thường được gọi là bất lực, được định nghĩa là không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng đủ để giao hợp, về bản chất là một chẩn đoán do bệnh nhân xác định.

Mất trí nhớ ở người cao tuổi

Mặc dù không có sự đồng thuận hiện nay vào việc bệnh nhân lớn tuổi nên được kiểm tra bệnh mất trí nhớ, lợi ích của việc phát hiện sớm bao gồm xác định các nguyên nhân.

Kỹ năng khám sức khỏe trên lâm sàng

Mặc dù bác sỹ không sử dụng tất cả các kỹ thuật nhìn sờ gõ nghe cho mọi hệ cơ quan, nên nghĩ đến bốn kỹ năng trước khi chuyển sang lĩnh vực tiếp theo được đánh giá.

Khó thở do bệnh phế quản phổi, tim, toàn thân hoặc nguyên nhân khác

Khởi phát nhanh, khó thở nghiêm trọng trong trường hợp không có triệu chứng lâm sàng khác cần nâng cao mối quan tâm đối với tràn khí màng phổi, thuyên tắc phổi

Định hướng chẩn đoán đau bụng mạn tính

Đau bụng mạn tính rất phổ biến, hầu hết bệnh nhân trẻ sẽ có rối loạn chức năng, bệnh nhân lớn tuổi với đau bụng mới, dai dẳng, ưu tiên là loại trừ bệnh lý ác tính.

Đau vai: phân tích triệu chứng

Không thể đánh giá các quá trình bệnh lý một cách riêng biệt vì mối quan hệ phức tạp của đai vai với các cấu trúc khác. Vai bao gồm ba xương và bốn bề mặt khớp.

Phát ban toàn thân cấp: phân biệt các bệnh cảnh lâm sàng

Bài viết này nhằm cung cấp một cách tiếp cận từng bước để xác định được những trường hợp ban da toàn thân cấp là những cấp cứu trong da liễu cần được hỏi ý kiến chuyên khoa da liễu và điều trị ngay.

Mục tiêu của việc thăm khám lâm sàng

Hiệu lực của một phát hiện vật lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, kinh nghiệm lâm sàng và độ tin cậy của các kỹ thuật khám là quan trọng nhất.

Tiếng thổi tâm trương: phân tích triệu chứng khi nghe tim

Tiếng thổi tâm trương thường do hẹp van hai lá hoặc van ba lá hoặc hở van động mạch chủ hoặc van động mạch phổi, tiếng thổi tâm trương thường không được coi là bệnh lý.

Chứng rậm lông: phân tích triệu chứng

Rậm lông có thể báo hiệu một rối loạn bệnh lý và cũng có tác động tiêu cực đến lòng tự trọng của bệnh nhân, vì vậy việc nhận biết nguyên nhân và đánh giá tình trạng này là rất quan trọng.

Đi tiểu ra máu: các nguyên nhân thường gặp

Tiểu máu đại thể gợi ý nghĩ nhiều đến bệnh lý đường tiểu và luôn đòi hỏi phải đánh giá thêm. Tiểu máu vi thể thường tình cờ phát hiện ở bệnh nhân không có triệu chứng và thách thức nằm ở việc phân biệt các nguyên nhân lành tính với các bệnh lý nghiêm trọng.

Yếu chi một bên: đánh giá đặc điểm khởi phát lâm sàng

Trong tất cả các trường hợp, tham khảo lời khuyên của các chuyên gia thần kinh và tìm hiểu thêm bằng cách tiến hành chọc dịch não tủy ± MRI nếu CT không tìm ra nguyên nhân.

Đau thắt lưng: phân tích triệu chứng

Nguyên nhân của cơn đau là không đặc hiệu ở phần lớn những người bị đau thắt lưng cấp tính; vấn đề nghiêm trọng là rất hiếm, thường tự giới hạn, nhưng chẩn đoán phải loại trừ các nguyên nhân hiếm gặp.

Phát ban dát sẩn: phân tích triệu chứng

Khi phát ban dát sẩn có liên quan đến sốt, nên nghi ngờ nguyên nhân nhiễm trùng. Nếu không có sốt, phản ứng dị ứng thường là nguyên nhân.

Các xét nghiệm ghi hình và sinh thiết thận

Khi kích thước thận có chiều dài lớn hơn 9 cm thì chỉ ra bệnh thận không hồi phục, Trong bệnh thận một bên có thể có sự chênh lệch kích thước thận đến 1,5 cm

Khó thở mạn tính: thang điểm khó thở và nguyên nhân thường gặp

Khó thở mạn tính được định nghĩa khi tình trạng khó thở kéo dài hơn 2 tuần. Sử dụng thang điểm khó thở MRC (hội đồng nghiên cứu y tế - Medical Research Council) để đánh giá độ nặng của khó thở.

Loét áp lực do tỳ đè

Các công cụ này có thể được sử dụng để xác định các bệnh nhân nguy cơ cao nhất có thể hưởng lợi nhiều nhất như nệm làm giảm hoặc giảm bớt áp lực

Phân tích triệu chứng ngủ nhiều để chẩn đoán và điều trị

Ngủ nhiều quá mức nên được phân biệt với mệt mỏi tổng quát và mệt mỏi không đặc hiệu, vì bệnh nhân thường sử dụng các thuật ngữ thay thế cho nhau.

Men gan tăng cao: phân tích triệu chứng

Các men gan (aminotransferase) là các enzym tế bào được tìm thấy trong tế bào gan; chúng được giải phóng vào huyết thanh do tổn thương tế bào gan, do đó làm tăng nồng độ trong huyết thanh từ mức cơ bản thấp.