Mất ý thức thoáng qua: phân tích triệu chứng lâm sàng

2021-01-31 06:13 PM

Xem như là mất ý thức thoáng qua nếu nhân chứng xác định có một khoảng thời gian không có đáp ứng, bệnh nhân mô tả thức dậy hoặc tỉnh lại trên mặt đất, đặc biệt không có ký ức về việc té ngã gì trước đó, hoặc có tổn thương mặt.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Xác định mất ý thức

Trong trường hợp không có những lời tường thuật từ nhân chứng một cách rõ ràng thì rất khó để xác định liệu có mất ý thức thoáng qua hay không - hãy yêu cầu bệnh nhân kể lại các sự việc càng chi tiết càng tốt:

Xem như là mất ý thức thoáng qua nếu có:

Nhân chứng xác định có một khoảng thời gian không có đáp ứng nào cả.

Bệnh nhân mô tả thức dậy hoặc tỉnh lại trên mặt đất, đặc biệt không có ký ức về việc té ngã gì trước đó.

Có tổn thương mặt (hầu hết bệnh nhân tỉnh táo có thể bảo vệ mặt khi ngã)

Không giống với mất ý thức thoáng qua nếu:

Không mất trương lực tư thế (postural tone).

Bệnh nhân nhớ được việc ngã xuống mặt đất.

Nhân chứng xác nhận có sự tương tác hoặc nhận biết được môi trường xung quanh trong suốt cơn.

Các đặc điểm của shock

Ngất có thể là bệnh cảnh của rối loạn huyết động chính như: thuyên tắc phổi diện rộng, xuất huyết tiêu hóa nặng. Nếu tìm thấy bằng chứng của Shock trong đánh giá ABCDE.

Hồi phục ý thức hoàn toàn

Sơ đồ chẩn đoán bên dưới phù hợp với cơn thoáng qua của mất ý thức thoáng qua. Nếu có bằng chứng giảm điểm glasgow kéo dài trong đánh giá ABCDE, thì đánh giá trong trường hợp đầu tiên.

Đường máu mao mạch < 3mmol/L hoặc lâm sàng có sự nghi ngờ nhiều đến hạ đường huyết

Việc quy một cơn suy giảm ý thức là do hạ Glucose máu đòi hỏi:

Chứng minh lượng Glucose máu thấp có liên quan với mất ý thức thoáng qua.

Hồi phục hoàn toàn với việc hoàn trả lại glucose máu về mức bình thường.

Chứng thực chỉ số đường máu mao mạch (BM) thấp với các phương pháp đo trong phòng thí nghiệm bất cứ khi nào có thể nhưng không đợi kết quả để mới bắt đầu điều trị. Một số bệnh nhân có thể được điều chỉnh lại điều trị trước khi đánh giá mà không có chỉ số BM. Trong những trường hợp này, nghĩ đến hạ đường huyết nếu tình trạng được giải quyết khi cho dùng carbohydrate/glucagon và đã xuất hiện các triệu chứng báo trước của hệ thần kinh tự động (vã mồ hôi, run, đói), hoặc giảm glucose thần kinh (khó tập trung, rối loạn ý thức, mất đồng vận) hoặc đã xảy ra ở bệnh nhân đang dùng Insulin hoặc sulfonylurea.

Có bất kỳ đặc điểm tim nguy hiểm

Luôn luôn phải ngoại trừ một nguyên nhân tim mạch nền nghiêm trọng gây ra mất ý thức thoáng qua. Tiếp tục theo sơ đồ chẩn đoán nhưng cho bệnh nhân nhập viện và hội chẩn với chuyên gia tim mạch.

Hơn một đặc điểm co giât hoặc một đặc điểm co giât và không có đặc điểm ngất

Phân biệt co giật và ngất là một bước chìa khóa trong quá trình đánh giá. Đặc điểm gợi ý mạnh mẽ co giật. Chú ý rằng các mô tả không rõ ràng như giật thình lình, giật cơ, đều không giúp ích gì vì cử động giống co giật có thể xảy ra đến 90% trong giai đoạn ngất. Ngược lại với co giật, các cử động bất thường trong khi ngất, thường không có tính nhịp điệu và ngắn (<15s).

Cơn mất ý thức thoáng qua.có khả năng cao là co giật nếu có >1 đặc điểm. Co giật có khả năng cao nếu có bất kì một đặc điểm nào trong bảng này xuất hiện và không có dấu hiệu chỉ điểm đặc trưng nào của ngất.

Trong cả hai trường hợp, đều chuyển đến co giật.

Có một hoặc hơn một đặc điểm ngất và không có đặc điểm co giât

Nghĩ đến ngất nếu xuất hiện bất kỳ đặc điểm nào của ngất và không có bất kỳ đặc điểm nào của co giật.

Giống co giật hoặc ngất - Lấy làm chẩn đoán hiện tại nếu có thể. Cân nhắc nguyên nhân chức năng nếu đặc điểm không điển hình

Khi sự khác biệt giữa ngất và co giật không rõ ràng, các dấu hiệu lâm sàng khác có thể hữu ích như: Quên các sự kiện trước và sau cơn, đau đầu hoặc đau cơ sau cơn phù hợp hơn với chẩn đoán co giật.

Giai đoạn tiền ngất trước đó, vẻ tái nhợt được ghi nhận trong suốt quá trình mất ý thức thoáng qua., bệnh lý tim mạch đã biết và một ECG bất thường lại phù hợp với ngất. Chứng tiểu không tự chủ không phải là một dấu hiệu hữu ích để phân biệt. Cân nhắc đến các nguyên nhân chức năng nếu các đặc điểm không điển hình xuất hiện. Có thể tham khảo ý kiến chuyên gia nếu nguyên nhân vẫn còn chưa rõ ràng.

Các dấu hiệu tim mạch báo động đỏ

Mất ý thức thoáng qua.trong suốt quá trình gắng sức.

Bệnh van tim nặng, bệnh mạch vành, bệnh cơ tim.

Tiền sử gia đình có người đột tử trẻ tuổi không giải thích được.

Rối loạn nhịp thất trước đó hoặc nguy cơ cao rối loạn nhịp thất như: nhồi máu cơ tim trước đó, phẫu thuật tim.

Nhịp nhanh thất dai dẳng hoặc không dai dẳng trên hệ thống theo dõi từ xa.

Có nguy cơ cao bất thường ECG:

Block hai hoặc ba phân nhánh.

Các thay đổi sóng T hoặc đoạn ST mới.

Nhịp chậm xoang < 50 lần/phút hoặc ngừng xoang > 3giây.

Block nhĩ thất cấp hai hoặc hoàn toàn.

Bằng chứng của hội chứng kích thích sớm.

Khoảng QT kéo dài ví dụ như QTc > 500 milli giây.

Dạng Brugada: block nhánh phải với ST chênh lên ở chuyển đạo V1-V3.

Dấu hiệu lâm sàng gợi ý mạnh đến co giật

Mất ý thức thoáng qua. đi trước bởi tiền triệu điển hình như bất thường khứu giác, cảm giác phồng lên ở bụng, ảo giác.

Một nhân chứng tường thuật lại cử động bất thường cơn co cứng- co giật chi như sau:

biên độ lớn và có nhịp điệu.

Duy trì >30s (hỏi nhân chứng để xác nhận các cử động).

Một nhân chứng tường thuật rằng có xoay đầu về một bên, tư thế bất thường, xanh tím hoặc các hành động vô thức như nhai, chép môi trong suốt cơn.

Cắn lưỡi, chảy máu lưỡi hoặc có vết cắn ở bờ bên lưỡi.

Giai đoạn kéo dài (>5 phút): lú lẫn hoặc ngủ gà sau cơn.

Dấu hiệu lâm sàng gợi ý mạnh đến ngất

Mất ý thức thoáng qua sau khi đau ngực, hồi hộp, khó thở, đầu óc quay cuồng, tiền triệu trước ngất điển hình.

Mất ý thức thoáng qua xảy ra sau khi đứng dậy, sau khi đứng lâu, trong suốt quá trình gắng sức hoặc theo sau một yếu tố khởi phát điển hình như:

Hình ảnh, âm thanh, mùi vị hoặc cơn đau gây khó chịu.

Tiêm tĩnh mạch.

Tiểu tiện.

Ho.

Bữa ăn thịnh soạn.

Thời gian diễn ra mất ý thức thoáng qua ngắn (< 1 phút).

Đầu óc nhanh chóng tỉnh táo trở lại sau mất ý thức thoáng qua.

Bài viết cùng chuyên mục

Yếu chi: đánh giá triệu chứng trên bệnh cảnh lâm sàng

Yếu chi một bên có thể do nhiều nguyên nhân không đột quỵ gây ra và không nên vội vàng lờ đi các nguyên nhân này để có thể kiểm soát thích hợp.

Ngã và rối loạn dáng đi ở người cao tuổi

Những thay đổi này, người lớn tuổi dễ mắc ngã khi bị thách thức bởi một sự vi phạm bổ sung cho bất kỳ hệ thống này

Lú lẫn mê sảng: đánh giá khi có tổn thương

Khi không chỉ định chụp hình ảnh não, có thể duy trì các biện pháp điều trị trong vài ngày. CT sọ não có thể được chỉ định để loại trừ xuất huyết dưới nhện và những bất thường cấu trúc khác nếu bệnh nhân thất bại điểu trị hoặc nặng hơn.

Đau ngực không điển hình: phân tích triệu chứng

Đau ngực không điển hình có thể bắt nguồn từ bất kỳ cơ quan nào trong lồng ngực, cũng như từ các nguồn ngoài lồng ngực, ví dụ viêm tuyến giáp hoặc rối loạn hoảng sợ.

Chảy máu sau mãn kinh: phân tích triệu chứng

Chảy máu âm đạo bất thường là một vấn đề ngoại trú phổ biến, xảy ra ở 10% phụ nữ trên 55 tuổi và chiếm 70% số lần khám phụ khoa trong những năm tiền mãn kinh và sau mãn kinh.

Loãng xương: phân tích triệu chứng

Sự mất cân bằng hoạt động của nguyên bào xương và nguyên bào xương có thể do một số tình trạng liên quan đến tuổi tác và bệnh tật gây ra, thường được phân loại là loãng xương nguyên phát và thứ phát.

Điện tâm đồ trong nhồi máu phổi

Những bất thường đặc hiệu gợi ý nhồi máu phổi bao gồm trục lệch phải mới xuất hiện, dạng R ở V1, sóng T đảo ngược ở V1=V3 hoặc block nhánh phải.

Phân tích triệu chứng ngủ nhiều để chẩn đoán và điều trị

Ngủ nhiều quá mức nên được phân biệt với mệt mỏi tổng quát và mệt mỏi không đặc hiệu, vì bệnh nhân thường sử dụng các thuật ngữ thay thế cho nhau.

Buồn nôn và ói mửa: phân tích triệu chứng để chẩn đoán và điều trị

Buồn nôn là triệu chứng gặp phải trong nhiều rối loạn cũng gây nôn, nôn là một phản ứng nhằm bảo vệ khỏi việc nuốt phải các chất có hại hoặc độc hại.

Đau ngực từng cơn: đặc điểm đau do tim và các nguyên nhân khác

Đau ngực do tim thường được mô tả điển hình là cảm giác bị siết chặt, đè nặng nhưng nhiều trường hợp khác có thể mô tả là bỏng rát. Nhiều bệnh nhân không cảm thấy đau mà chỉ là cảm giác khó chịu nếu chỉ hỏi về đau, có thể bỏ sót chẩn đoán.

Tiểu không tự chủ: phân tích triệu chứng

Tỷ lệ tiểu không tự chủ tăng theo tuổi và cao tới 34% ở nữ và 11% ở nam. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc rút lui khỏi xã hội và mất khả năng sống độc lập.

Thiếu máu trong bệnh mạn tính

Tình trạng giảm erythropoietin ít khi là nguyên nhân quan trọng gây sản xuất hồng cầu dưới mức từ trong suy thận, khi đó erythropoietin giảm là một quy luật.

Insulin tiêm dưới da cho bệnh nhân nằm viện: phác đồ và mục tiêu điều trị

Có khoảng ba mươi phần trăm, bệnh nhân nhập viện bị tăng đường huyết, nhiều bệnh nhân trong số này có tiền sử đái tháo đường trước đó

Giảm cân ngoài ý muốn: phân tích triệu chứng để chẩn đoán và điều trị

Các vấn đề gây ra giảm cân thông qua một hoặc nhiều cơ chế, lượng calo hấp thụ không đủ, nhu cầu trao đổi chất quá mức hoặc mất chất dinh dưỡng qua nước tiểu hoặc phân.

Phòng chống lạm dụng rượu và ma túy bất hợp pháp

Phòng chống lạm dụng rượu và ma túy bất hợp pháp! Tỷ lệ lạm dụng có vẻ cao hơn ở nam giới, người da trắng, thanh niên chưa lập gia đình và cá nhân...

Thăm khám bệnh nhân suy dinh dưỡng

Trên cơ sở bệnh sử và kết quả khám sức khỏe, bệnh nhân được xếp theo 3 loại là dinh dưỡng tốt, suy dinh dưỡng trung bình hoặc nghi ngờ và suy dinh dưỡng nặng.

Giảm vận động ở người cao tuổi

Tránh, hạn chế và ngưng các thiết bị xâm lấn, đường tĩnh mạch, ống thông tiểu) có thể làm tăng triển vọng bệnh nhân cao tuổi cho chuyển động sớm

Lập luận chẩn đoán từ các dấu hiệu và triệu chứng

Dấu hiệu và triệu chứng thu tương tự như các xét nghiệm, thông tin và kết quả thu được được đánh giá theo cùng một cách và tuân theo các quy tắc và tiêu chuẩn bằng chứng giống nhau.

Đồng tử không đều: phân tích triệu chứng

Ở hầu hết các bệnh nhân, đồng tử không đều được phát hiện tình cờ; các triệu chứng là tương đối hiếm gặp, cần hỏi về các triệu chứng ở mắt như đau, đỏ, chảy nước mắt, sợ ánh sáng.

Giai đoạn cuối đời của bệnh nhân

Trải nghiệm của bệnh nhân vào cuối của cuộc sống bị ảnh hưởng bởi những kỳ vọng của họ về cách họ sẽ chết và ý nghĩa của cái chết.

Nguy cơ tự tử: phân tích để chẩn đoán và điều trị

Tự tử thường được coi là một quyết định đạo đức mâu thuẫn với nhiều giá trị tôn giáo và xã hội, đối với nhiều cá nhân cố gắng hoặc tự tử, chất lượng cuộc sống đã trở nên cạn kiệt đến mức không còn lựa chọn nào khác.

Nguy cơ té ngã: cách thực hiện đánh giá dáng đi

Sự an toàn và vững chắc chung; bất thường dáng đi một bên (đột quỵ, tổn thương thần kinh ngoại biên, bệnh khớp, đau); bước đi ngắn, lê chân (bệnh Parkinson, bệnh lý mạch máu não lan tỏa); dáng đi bước cao.

Đau vùng chậu mãn tính: phân tích triệu chứng

Bất kỳ cấu trúc giải phẫu nào ở bụng hoặc xương chậu đều có thể góp phần gây ra đau vùng chậu mãn tính, sẽ rất hữu ích nếu cố gắng phân loại cơn đau là do phụ khoa hay không.

Vàng da: đánh giá bệnh cảnh lâm sàng

Vàng da xảy ra khi có sự rối loạn vận chuyển bilirubin qua tế bào gan có thể tắc nghẽn của ống dẫn mật do viêm hoặc phù nề. Điển hình là sự tăng không tỉ lệ giữa ALT và AST liên quan với ALP và GGT.

Thăm khám bệnh nhân: đã có một chẩn đoán trước đó

Tự chẩn đoán cũng có thể làm chậm trễ trong tìm đến sự giúp đỡ về y tế bởi vì bệnh nhân không đánh giá đúng triệu chứng hay trong tiềm thức của họ không muốn nghĩ đến các bệnh nghiêm trọng.