Nhân tuyến giáp: phân tích triệu chứng

2023-04-19 09:36 AM

Tiếp xúc với bức xạ ion hóa hoặc xạ trị chùm tia bên ngoài (đặc biệt là trước 20 tuổi) làm tăng tỷ lệ mắc các nhân tuyến giáp lành tính và ác tính với tỷ lệ 2% mỗi năm và đạt đỉnh 15–20 năm sau khi tiếp xúc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhân tuyến giáp là nhân có thể sờ thấy ở một tuyến giáp khác bình thường. Chỉ khoảng 5–10% nhân tuyến giáp là ung thư. Loại nhân tuyến giáp phổ biến nhất là nhân tuyến giáp keo, không liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư.

Nguyên nhân

Tiếp xúc với bức xạ ion hóa hoặc xạ trị chùm tia bên ngoài (đặc biệt là trước 20 tuổi) làm tăng tỷ lệ mắc các nhân tuyến giáp lành tính và ác tính với tỷ lệ 2% mỗi năm và đạt đỉnh 15–20 năm sau khi tiếp xúc. Thiếu iốt dẫn đến tăng nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH), tăng sao chép tế bào tuyến giáp và tăng tỷ lệ nhân tuyến giáp sần.

Các nhân tuyến giáp sờ thấy có ở 4–7% người lớn. Các nhân tuyến giáp phát hiện tình cờ trên siêu âm được ước tính xảy ra với tần suất 19–67%.

Tuổi dưới 20 hoặc trên 65 tuổi, giới tính nam, tiếp xúc với bức xạ và tiền sử ung thư tuyến giáp là những yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp. Các nhân tuyến giáp lành tính xuất hiện thường xuyên hơn ở phụ nữ từ 4 đến 5 lần, nhưng có nhiều khả năng trở thành ung thư ở nam giới.

Đánh giá đặc điểm

Việc đánh giá bệnh nhân tuyến giáp tập trung vào tình trạng chức năng của tuyến và phát hiện ung thư tuyến giáp. Suy giáp hoặc cường giáp có thể được gợi ý qua tiền sử và khám thực thể.

Nhân tuyến giáp phát triển nhanh hoặc các triệu chứng xâm lấn tại chỗ (khàn giọng, đau cổ, khó nuốt, thở rít hoặc khó thở) làm tăng nghi ngờ ung thư. Đột ngột xuất hiện sưng, đau hoặc nhạy cảm cục bộ gợi ý xuất huyết thành một nhân hoặc nang có từ trước.

Cổ được kiểm tra bên dưới sụn giáp từ phía trước và bên cạnh, sử dụng ánh sáng chéo để làm nổi bật bóng và khối.

Mở rộng hoàn toàn cổ giúp tăng khả năng hiển thị của tuyến. Bệnh nhân được tiếp cận từ phía trước hoặc phía sau trong quá trình sờ nắn, được thực hiện bằng các ngón tay hoặc ngón cái. Để bệnh nhân nuốt trong cả quá trình kiểm tra và sờ nắn làm cho tuyến giáp di chuyển và hỗ trợ phát triển ấn tượng ba chiều về tuyến. Vị trí, kích thước, tính nhất quán, tính di động và độ mềm của tất cả các nhân tuyến giáp sần phải được ghi lại. Nhân tuyến giáp cứng, không đều, không mềm, > 4 cm, cố định với các cấu trúc xung quanh, kết hợp với hạch to tại chỗ hoặc bất động dây thanh gợi ý bệnh ác tính.

TSH huyết thanh nên được đánh giá ở mọi bệnh nhân. Đây là xét nghiệm sàng lọc tốt nhất cho cả bệnh suy giáp (TSH tăng) và nhiễm độc giáp (TSH bị ức chế). Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến giáp thể tủy hoặc đa u nội tiết loại II cần đảm bảo dùng calcitonin cơ bản trong huyết thanh.

Ở những bệnh nhân bình giáp có nhân tuyến giáp sần, nên thực hiện sinh thiết chọc hút bằng kim nhỏ (FNAB). FNAB đã chứng minh độ nhạy 68–98% và độ đặc hiệu 72–100%.

Sau khi gây tê cục bộ, kim 25-G, được hướng dẫn bằng cách sờ nắn (hoặc siêu âm nếu nhân tuyến giáp nhỏ hơn 1 cm) được sử dụng để lấy từ hai đến năm mẫu bệnh phẩm. Ngay cả ở những người có kinh nghiệm, sinh thiết thường không đạt yêu cầu và cần phải được lặp lại. Phẫu thuật cắt thùy tuyến giáp với phân tích phần đông lạnh có thể được yêu cầu nếu FNAB liên tục không được chẩn đoán và xác suất ung thư trước xét nghiệm lâm sàng cao.

Siêu âm không thể phân biệt một cách đáng tin cậy các nhân tuyến giáp lành tính và ác tính, mặc dù các đặc điểm như vi vôi hóa và bờ không đều gợi ý ung thư. Mặc dù ít được sử dụng hơn, quét đồng vị phóng xạ bằng iốt phóng xạ có thể phân biệt giữa các nhân tuyến giáp hoạt động (“nhân tuyến giáp nóng”) và nhân tuyến giáp không hoạt động (“lạnh”). Khoảng 5% các nhân tuyến giáp đang hoạt động và ít có khả năng ác tính. Tương tự như vậy, chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ có giá trị hạn chế trong quá trình chẩn đoán ban đầu ngoại trừ các trường hợp chèn ép cục bộ.

Sự hiện diện của một số đột biến gen nhất định có liên quan đến ung thư tuyến giáp, được chứng minh là hữu ích về mặt lâm sàng khi FNAB không xác định được. Những đột biến này xảy ra trong gen của thụ thể tyrosine kinase (RET/PTC, NTRK), protein nhân (PAX-8-PPARγ) và protein tín hiệu (RAS, BRAF). Những thay đổi sau này cùng với đột biến RET/PTC thường gặp ở ung thư biểu mô nhú trong khi ung thư nang mang gen gây ung thư RAS và khiếm khuyết PAX-8-PPARγ. Những dấu hiệu di truyền này dự kiến sẽ được tích hợp vào các thuật toán chẩn đoán khi có nhiều dữ liệu được tích lũy hơn và các xét nghiệm trở nên phổ biến hơn.

Khoảng 4–8% các trường hợp ung thư nhú là có tính chất gia đình, và tỷ lệ mắc bệnh cao đã được báo cáo ở những bệnh nhân mắc bệnh đa polyp tuyến (hội chứng Gardner) và nhiều hội chứng hamartoma (bệnh Cowden).

Ung thư tủy, thường là một phần của đa u nội tiết loại II, thường xảy ra theo kiểu di truyền.

Chẩn đoán phân biệt

Nếu kết quả của FNAB cho thấy bệnh ác tính hoặc đáng ngờ, không xác định hoặc liên tục không đạt yêu cầu, thì việc giới thiệu phẫu thuật ngay lập tức được đảm bảo. Đôi khi, quét hạt nhân phóng xạ được sử dụng để đánh giá kết quả sinh thiết đáng ngờ và các nhân tuyến giáp tăng chức năng được quan sát thay vì loại bỏ. Nếu sinh thiết rõ ràng là lành tính, nên kiểm tra cẩn thận nhân tuyến giáp sần và các cấu trúc xung quanh, siêu âm và đo TSH mỗi 12 tháng. Trong khi các nhân tuyến giáp sần hơn 4 cm có 19% nguy cơ ung thư, quyết định phẫu thuật không nên chỉ dựa trên kích thước nhân tuyến giáp sần.

Sự hiện diện của cường giáp hoặc suy giáp làm giảm nghi ngờ ung thư nhưng không loại trừ nó. Bất kỳ nhân tuyến giáp nào to ra hoặc trở nên nghi ngờ về mặt lâm sàng đều nên được làm lại sinh thiết.

Bài viết cùng chuyên mục

Tiểu khó: phân tích triệu chứng

Chẩn đoán phổ biến nhất cho bệnh nhân mắc chứng khó tiểu là nhiễm trùng đường tiết niệu, mặc dù là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra các triệu chứng khó tiểu, nhưng nhiều nguyên nhân khác cần được chẩn đoán chính xác.

Chứng rậm lông: phân tích triệu chứng

Rậm lông có thể báo hiệu một rối loạn bệnh lý và cũng có tác động tiêu cực đến lòng tự trọng của bệnh nhân, vì vậy việc nhận biết nguyên nhân và đánh giá tình trạng này là rất quan trọng.

Phát ban dát sẩn: phân tích triệu chứng

Khi phát ban dát sẩn có liên quan đến sốt, nên nghi ngờ nguyên nhân nhiễm trùng. Nếu không có sốt, phản ứng dị ứng thường là nguyên nhân.

Đau ở giai đoạn cuối đời

Một số bác sỹ tham khảo quản lý đau cho người khác khi họ tin rằng nỗi đau của bệnh nhân không phải là do các căn bệnh mà họ đang điều trị cho các bệnh nhân

Định hướng chẩn đoán đau bụng mạn tính

Đau bụng mạn tính rất phổ biến, hầu hết bệnh nhân trẻ sẽ có rối loạn chức năng, bệnh nhân lớn tuổi với đau bụng mới, dai dẳng, ưu tiên là loại trừ bệnh lý ác tính.

Nhiễm trùng đường hô hấp: những đánh giá bổ sung khi thăm khám

Ở những bệnh nhân khỏe mạnh trước đó mà không có dấu hiệu ngực khu trú hoặc bất thường trên XQ phổi, chẩn đoán nhiều khả năng là nhiễm trùng hô hấp không viêm phổi, ví dụ viêm phế quản cấp.

Đái máu với những điều thiết yếu

Khi không có triệu chứng nào khác, đái máu đại thể có thể có thể chỉ điểm nhiều hơn về khối u, nhưng cũng cần phân biệt với sỏi, các bệnh lý thận tiểu cầu và bệnh thận đa nang.

Sốt: đánh giá dấu hiệu triệu chứng và các yếu tố nguy cơ

Mở rộng tầm soát nhiễm trùng ở các bệnh nhân đặc biệt. Các chủng tác nhân hiện hành thường gặp như viêm phổi có thể khác nhau tùy theo dịch tễ từng vùng, do đó hội chấn với chuyên gia truyền nhiễm ngay ở giai đoạn ban đầu.

Định hướng chẩn đoán trước một tình trạng sốt

Sốt thường xảy ra như một phần của đáp ứng pha cấp của do nhiễm trùng, nhiễm trùng gây ra đáp ứng viêm hệ thống có tỉ lệ tử vong đáng kể và cần phải được nhận diện và điều trị kịp thời.

Khối u ở vú: phân tích triệu chứng

Đánh giá khối u ở vú nên bắt đầu bằng việc hỏi bệnh sử đầy đủ và khám thực thể. Điều quan trọng là phải xác định nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của bệnh nhân.

Khám lão khoa: điểm đặc biệt trong đánh giá người già yếu suy kiệt

Khi có thể, xem xét các yếu tố trong tiền sử bệnh nhân có tương tự với những thông tin của người chứng kiến, người chăm sóc, người thân, ghi chú của bệnh nhân hoặc các nhân viên y tế khác không.

Phì đại tuyến giáp (bướu cổ): phân tích triệu chứng

Bất kỳ cản trở quá trình tổng hợp hoặc giải phóng hormone tuyến giáp đều có thể gây ra bướu cổ. Cho đến nay, yếu tố rủi ro quan trọng nhất đối với sự phát triển của bệnh bướu cổ là thiếu i-ốt.

Mệt mỏi: các biểu hiện phải phân biệt

Mệt mỏi hay thiếu năng lượng thường là lý do cho việc từ bỏ các hoạt động và đặt câu hỏi cẩn thận có thể cần thiết để phân biệt giữa giới hạn hoạt động thể lực và thiếu hứng thú, quyết tâm.

Phù chân: đánh giá dựa trên kết quả lâm sàng và cận lâm sàng

Cân nhắc huyết khối tĩnh mạch sâu ở bất kỳ bệnh nhân nào có phù chân cả hai bên, kể cả khi các yếu tố nguy cơ hoặc những triệu chứng/ dấu chứng khác không rõ ràng.

Thăm khám bệnh nhân suy dinh dưỡng

Trên cơ sở bệnh sử và kết quả khám sức khỏe, bệnh nhân được xếp theo 3 loại là dinh dưỡng tốt, suy dinh dưỡng trung bình hoặc nghi ngờ và suy dinh dưỡng nặng.

Khó nuốt thực quản (cấu trúc): các nguyên nhân thường gặp

Cả bệnh cấu trúc và rối loạn vận động đều có thể gây khó nuốt. Nguyên nhân cấu trúc thường gây khó nuốt với thức ăn rắn; rối loạn vận động có thể gây khó nuốt với cả thức ăn rắn và chất lỏng.

Ho ra máu: đánh giá các triệu chứng lâm sàng

Lượng máu chảy khó xác định chính xác trên lâm sàng nhưng có thể ước lượng thể tích và tỷ lệ máu mất bằng cách quan sát trực tiếp lượng máu ho ra với một vật chứa có chia độ. Nguy cơ chủ yếu là ngạt do ngập lụt phế nang hoặc tắc nghẽn đường thở.

Khó nuốt miệng hầu: các nguyên nhân thường gặp

Tổn thương neuron vận động trên của dây thần kinh sọ IX-XII hai bên dẫn đến cơ lưỡi và hầu nhỏ, co rút và cử động chậm với giật cằm nhanh. Điều này có thể liên quan với rối loạn giọng nói và cảm xúc không ổn định.

Nhịp tim nhanh: phân tích triệu chứng

Triệu chứng nhịp tim nhanh gồm khó chịu ở ngực, khó thở, mệt mỏi, choáng váng, tiền ngất, ngất và đánh trống ngực, cần tìm kiếm trong tiền sử bệnh lý.

Biểu hiện toàn thân và đau trong thận tiết niệu

Đau là biểu hiện của căng tạng rỗng (niệu quản, ứ nước tiểu) hoặc căng bao cơ quan (viêm tuyến tiền liệt, viêm thận bể thận).

Khó nuốt: đánh giá các triệu chứng lâm sàng

Nếu không có nguyên nhân nào được xác định trên nội soi tiêu hóa trên, hội chẩn với chuyên gia tiêu hóa để đánh giá bổ sung cho rối loạn vận động, như nuốt barium hoặc đo áp lực thực quản có thể cần thiết.

Tiêu chảy: phân tích bệnh cảnh lâm sàng

Tiêu chảy cấp thường do nhiễm trùng gây ra, đôi khi có liên quan đến việc sử dụng thuốc hoặc bệnh cảnh ruột viêm. Tiêu chảy mạn tính/tái diễn có thể là biểu hiện của bệnh lý ruột viêm, ung thư đại trực tràng nhưng phân lớn do hội chứng ruột kích thích.

Thở khò khè: phân tích triệu chứng

Nguyên nhân gây thở khò khè phổ biến nhất ở mọi lứa tuổi là bệnh hen, và cần cố gắng loại trừ các nguyên nhân gây thở khò khè khác, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh.

Lập luận chẩn đoán từ nhiều dấu hiệu và triệu chứng không độc lập

Trong thực tế, nhiều dấu hiệu, triệu chứng và kết quả xét nghiệm thường không độc lập, bởi vì sự hiện diện của một phát hiện làm tăng xác suất xuất hiện của một phát hiện khác.

Liệu pháp insulin trong điều trị đái tháo đường: tuýp 1 và tuýp 2

Liệu pháp insulin nền và liệu pháp insulin tích cực, cho bệnh nhân đái tháo đường không đạt mục tiêu đường huyết