- Trang chủ
- Thông tin
- Chẩn đoán và điều trị theo y học hiện đại
- Các xét nghiệm ghi hình và sinh thiết thận
Các xét nghiệm ghi hình và sinh thiết thận
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phóng xạ đồ
Thường đánh giá chức năng lọc của thận bằng chất phóng xạ acid penta acetic diethylenetriamin technetium (99m Tc-DTPA) vì chất này được lọc tự do qua cầu thận và không bị tái hấp thu. Còn technitium dimer-captosuccinat (99m Tc-DMSA) gắn với ống thận nên có thể dùng để đánh giá phần thận còn chức năng. Orthoiodohippurat được bài tiết vào ống thận nên được dùng đánh giá lưu lượng huyết tương qua thận, đánh giá chức năng thận riêng rẽ từng bên, để xác định xem phần thận trong khối tổn thương còn chức năng hay không, để pahst hiện ra sự tắc nghẽn và để đánh giá bệnh mạch thận.
Hoaị tử ống thận cấp suy thận giai đoạn cuối, cả lưu lượng và chức năng thận đều giảm. Nếu có giảm lưu lượng của một thận thì chứng tỏ có tắc nghẽn của động mạch thận bên đó.
Siêu âm thận
Cho phép phân biệt phần vỏ, phần tủy thận, các đài thận và hệ thống ống góp hay niệu quản bị giãn.
Khi kích thước thận có chiều dài lớn hơn 9 cm thì chỉ ra bệnh thận không hồi phục. Trong bệnh thận một bên có thể có sự chênh lệch kích thước thận đến 1,5 cm.
Ngoài ra siêu âm thận còn chỉ định để phát hiện sàng lọc ứ nước thận, xác định tổn thương choán hỗ ở thận, phát hiện sàng lọc bệnh thận đa nang di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường, để đánh giá hố quanh thận, để xác định vị trí thận khi muốn làm thủ thuật gây chảy máu qua da như sinh thiết thận hay dẫn lưu thận và để đánh giá sự ứ đọng nước tiểu trong bàng quang sau khi đi đái.
Chụp đường tiết niệu có cản quang tiêm tĩnh mạch
Tiêm thuốc cản quang đường tính mạch (intravenuos pyelogram – IVP) là thủ thaatjc ơ bản được dùng nhiều năm nay.
Đánh giá hệ thống đường dẫn niệu: Thận, niệu quản và bàng quang.
Phân biệt chức năng giữa hai thận bằng cách đánh giá thời gian xuất hiện bóng thận ở từng bên.
Chống chỉ định tương đối khi bệnh nhân có nhiều nguy cơ suy thận cấp (tiểu đường có creatinin máu > 20 mg/ l, giảm thể tích tuần hoàn nặng, suy thận trước thận); suy thận mãn có creatinin > 50 mg/ l.
Trong đa u tủy xương, IVP được chỉ định để đánh giá chi tiết hình ảnh đài bể thận, hình thể và kích thước thận, phát hiện và định vị trí của sỏi thận, và đánh giá chức năng thận.
Ngày nay trong nhiều tình huống lâm sàng, siêu âm đã được thay thế IVP.
Chụp cắt lớp vi tính (CT Scan)
Là cần thiết khi có các hình ảnh bệnh lý đã được xác định bằng siêu âm hoặc chụp có cản quang tính mạch.
Chụp cắt lớp vi tính đặc biệt có ích khi cần đánh giá các tổn thương nang hoặc khối chắc ở thận hoặc ở hố quanh thận, nhất là khi hình ảnh siêu âm không rõ ràng.
Chụp cộng hưởng từ (MRI)
Phân biệt rõ vùng vỏ và vùng tủy thận.
Mất chức năng vỏ - tủy thận trong bệnh như viêm cầu thận, ứ nước thận, tắc mạch thận, suy thận đều thấy rõ trên MRI. Một số khối u chắc MRI cho kết quả tốt hơn CT Scan.
MRI được bổ xung hoặc thay thế CT để phân giai đoạn ung thư tế bào thận, thay thế hoàn toàn CT khi đánh giá choán chỗ ở thận, đặc biệt khi có chống chỉ định dùng chất cản quang. Với tuyến thượng thận, MRI thấy rất rõ.
Chụp động mạch và tĩnh mạch thận
Chụp động mạch thân rất cần để đánh giá tổn thương gây hẹp mạch do xơ vữa hoặc do loạn sản xơ, phình mạch, viêm mạch, tổn thương thận do khối u.
Chụp tĩnh mạch thận có ích trong chẩn đoán tắc tĩnh mạch do huyết khối.
Sinh thiết thận
Có thể cần thiết cho chẩn đoán, đánh giá tiên lượng, theo dõi tiến triển bệnh, chọn liệu pháp thích hợp nhất.
Các chỉ định chủ yếu sinh thiết thận
Suy thận cấp kéo dài và nguyên nhân không rõ ràng.
Hội chứng thận hư nghi ngờ có tổn thương cầu thận tiên phát.
Protein niệu > 2g/ ngày/ 1,73 m2 da và xét nghiệm cặn nước tiểu bất thường dù có rối loạn chức năng thận hay không.
Đái máu có protein niệu và tế bào niệu bất thường.
Trong bệnh hệ thống có rối loạn chức năng thận, như lupus ban đỏ, hội chứng Goodpasture, hội chứng Wegener, để khảng định mức độ lan rộng của tổn thương thận và hướng dẫn điều trị.
Nghi ngờ thải thận ghép, cần phân biệt thải ghép với nguyên nhân suy thận cấp khác và hướng dẫn điều trị.
Chống chỉ định sinh thiết thận
Thận lạc chỗ hay một thận đơn độc.
Thận móng ngựa.
Các bệnh rối loạn đông máu nặng.
Tăng huyết áp khó điều trị.
Nhiễm khuẩn thận.
Ung thư thận.
Thận ứ nước.
Suy thận giai đoạn cuối.
Các dị dạng bẩm sinh hoặc bệnh nhân từ chối.
Thành viên Dieutri.vn
Bài viết cùng chuyên mục
Tim to: phân tích triệu chứng
Tim to là do quá tải áp lực và phì đại cơ của một hoặc nhiều buồng tim, quá tải thể tích với sự giãn nở của các buồng tim hoặc bệnh cơ tim.
Mệt mỏi: đánh giá các nguyên nhân tinh thần và thể chất
Bệnh sử khai thác cẩn thận có thể cho thấy rằng vấn đề thực tế không chỉ là mệt mỏi, chẳng hạn hụt hơi, nên được tiếp tục kiểm tra. Nếu có các đặc điểm khu trú hoặc đặc hiệu hơn, chẳng hạn ho ra máu, sốt, vàng da lộ rõ, nên được tập trung đánh giá đầu tiên.
Đau cổ: phân tích triệu chứng
Các triệu chứng chính liên quan đến cổ là các triệu chứng ở rễ, chẳng hạn như dị cảm, mất cảm giác, yếu cơ, có thể cho thấy chèn ép rễ thần kinh.
Suy giáp: phân tích triệu chứng
Nguyên nhân phổ biến nhất của suy giáp nguyên phát là viêm tuyến giáp tự miễn, hoặc bệnh Hashimoto, là kết quả của sự phá hủy dần dần tuyến giáp bởi các tế bào T.
Mệt mỏi: đánh giá bệnh cảnh lâm sàng
Một số bệnh nhân, khó để phân biệt giữa mệt mỏi và khó thở; nếu có một bệnh sử rõ ràng hoặc bằng chứng của giảm khả năng gắng sức. Cân nhắc tiếp cận tương tự đối với khó thở gắng sức mạn tính.
Mất điều hòa cơ thể: phân tích để chẩn đoán và điều trị
Mất điều hòa bao gồm tay vụng về, dáng đi bất thường hoặc không ổn định và rối loạn vận ngôn, nhiều bất thường vận động được thấy trong rối loạn chức năng tiểu não.
Rối loạn sắc tố: phân tích triệu chứng
Với một số rối loạn sắc tố, nguyên nhân có thể dễ dàng được xác định là do di truyền, do ánh nắng mặt trời, do thuốc, nhiễm trùng hoặc viêm. Trong một số trường hợp, nguyên nhân ít rõ ràng hơn.
Khó thở cấp ở những bệnh nhân bị COPD: những đánh giá bổ sung
Nếu như khò khè là chủ yếu và không có đặc điểm của nhiễm trùng, chẩn đoán có khả năng là đợt cấp COPD không do nhiễm trùng. Tìm kiếm yếu tố khởi phát, ví dụ chẹn beta, không dung nạp với khí dung/bầu hít, yếu tố khởi phát từ môi trường.
Định hướng chẩn đoán đau ngực cấp
Mục đích chủ yếu là để nhận diện hội chứng vành cấp và những nguyên nhân đe dọa mạng sống khác như bóc tách động mạch chủ và thuyên tắc phổi.
Mất ý thức thoáng qua: ngất và co giật
Chẩn đoán mất ý thức thoáng qua thường dựa vào sự tái diễn, và sự phân tầng nguy cơ là điều thiết yếu để xác định những người cần phải nhập viện, và những người được lượng giá an toàn như bệnh nhân ngoại trú.
Khiếm thính ở người cao tuổi
Khuếch đại nghe phù hợp có thể là một thách thức vì sự kỳ thị liên quan đến hỗ trợ nghe cũng như chi phí của các thiết bị như vậy
Chẩn đoán bệnh lý: những xác suất và nguy cơ
Chẩn đoán khi xác suất xuất hiện được cho là đủ cao, và loại trừ chẩn đoán khi xác suất đủ thấp. Mức độ chắc chắn đòi hỏi phải dựa vào các yếu tố như hậu quả của sự bỏ sót các chẩn đoán đặc biệt, tác dụng phụ của điều trị và các nguy cơ của test chuyên sâu.
Đau thắt ngực: các bước đánh giá thêm nếu nghi ngờ
Mức độ đau thắt ngực không dựa trên mức đau mà dựa trên tần số triệu chứng, giới hạn khả năng gắng sức hoạt động chức năng. Bởi vì những thông tin này sẽ hướng dẫn điều trị và theo dõi đáp ứng, đánh giá triệu chứng chính xác.
Các biểu hiện thường gặp trong bệnh nội tiết
Gen gây béo sản xuất ra leptin, một cytokin do các tế bào mỡ tiết ra nhằm đối phó với sự cất giữ chất mỡ. Khi béo lên, leptin sẽ tác động đến vùng dưới đồi
Giảm tiểu cầu: phân tích triệu chứng
Giảm tiểu cầu xảy ra thông qua một hoặc nhiều cơ chế sau: giảm sản xuất tiểu cầu bởi tủy xương, tăng phá hủy tiểu cầu, kẹt lách, hiệu ứng pha loãng và lỗi xét nghiệm.
Giảm vận động ở người cao tuổi
Tránh, hạn chế và ngưng các thiết bị xâm lấn, đường tĩnh mạch, ống thông tiểu) có thể làm tăng triển vọng bệnh nhân cao tuổi cho chuyển động sớm
Phì đại tuyến giáp (bướu cổ): phân tích triệu chứng
Bất kỳ cản trở quá trình tổng hợp hoặc giải phóng hormone tuyến giáp đều có thể gây ra bướu cổ. Cho đến nay, yếu tố rủi ro quan trọng nhất đối với sự phát triển của bệnh bướu cổ là thiếu i-ốt.
Lú lẫn mê sảng: đánh giá khi có tổn thương
Khi không chỉ định chụp hình ảnh não, có thể duy trì các biện pháp điều trị trong vài ngày. CT sọ não có thể được chỉ định để loại trừ xuất huyết dưới nhện và những bất thường cấu trúc khác nếu bệnh nhân thất bại điểu trị hoặc nặng hơn.
Chứng hôi miệng: phân tích triệu chứng
Chứng hôi miệng đã bị kỳ thị, bệnh nhân hiếm khi tìm kiếm sự giúp đỡ và thường không nhận thức được vấn đề, mặc dù nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ và sự tự tin.
Mệt mỏi: đánh giá bổ sung thiếu máu
Đánh giá lại các triệu chứng và công thức máu toàn bộ sau khi bổ sung sắt và điều trị nguyên nhân nền. Chuyển bệnh nhân với giảm thể tích trung bình của hồng cầu và dự trữ sắt bình thường đến chuyên gia huyết học để đánh giá cho chẩn đoán thay thế.
Lú lẫn mạn tính: đánh giá về tình trạng lâm sàng
Thực hiện CT sọ não ở mỗi bệnh nhân biểu hiện lú lẫn mãn tính. Nó có thể giúp phát hiện được các nguyên nhân hồi phục được như xuất huyết dưới nhện, hoặc não úng thủy áp lực bình thường hoặc gợi ý các yếu tố nguyên nhân gây bệnh như bệnh mạch máu.
Rối loạn cương dương: phân tích triệu chứng
Rối loạn cương dương, trước đây thường được gọi là bất lực, được định nghĩa là không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng đủ để giao hợp, về bản chất là một chẩn đoán do bệnh nhân xác định.
Tràn khí màng phổi: phân tích triệu chứng
Tràn khí màng phổi có hai loại chính, tự phát và không tự phát, tự phát phân thành nguyên phát hoặc thứ phát, tràn khí không tự phát là do chấn thương, do điều trị.
Đau ngực, chẩn đoán và điều trị
Thiếu máu cơ tim thường được mô tả là tức nặng, đau cảm giác áp lực, thắt chặt, ép, chứ không phải là nhói sắc nét hoặc co thắt
Chóng mặt và choáng váng: các nguyên nhân
Thỉnh thoảng, thay đổi ý thức thoáng qua hay khiếm khuyết thần kinh khu trú được mô tả như là choáng váng. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhân với choáng váng có chóng mặt, đau đầu nhẹ, muốn xỉu/ cảm giác mất thăng bằng.