- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học nước ngoài
- Bệnh xơ cứng teo cơ cột bên (ALS, Amyotrophic lateral sclerosis)
Bệnh xơ cứng teo cơ cột bên (ALS, Amyotrophic lateral sclerosis)
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bệnh xơ cứng teo cơ côth bên: Bệnh ALS (có tên gọi khác là bệnh Lou Gehrig) xảy ra do một đợt biến cố tế bào làm chết các nơron (được gọi là cơ chế huỷ diệt từng bước - apotosis). Chương trình nghiên cứu đang hé mở một vài manh mối, trong đó có vai trò của lượng glutamate vượt mức (một hóa chất cần thiết để truyền dẫn các tín hiệu thần kinh), mitochondria hỏng (một phần của tế bào có nhiệm vụ cung cấp năng lượng), các vấn đề chuyển vận tế bào thần kinh (những tín hiệu và các yếu tố tăng trưởng được các protein mang theo) và vai trò tiềm ẩn của vi-rút. Sau đây là ví dụ về công việc đã được thực hiện để điều trị bệnh xơ cứng teo cơ cột bên:
Việc thay thế những tế bào thần kinh bị hư hại là một ý tưởng táo bạo nhưng hết sức triển vọng mặc dù người ta chưa xác định được rằng liệu các tế bào mới có kháng cự được nguồn tác hại ban đầu đã gây nên bệnh xơ cứng teo cơ cột bên hay không. Dù vẫn chưa rõ ràng nhưng trên thực tế những tế bào gốc đó có thể đảm nhận được nhiệm vụ xác định ra những nơron vận động và hình thành các điểm tiếp xúc phục hồi chức năng với cơ. Điều này có thể xảy ra vì các tế bào gốc đóng vai trò như là những phương tiện vận chuyển cho các yếu tố dinh dưỡng thần kinh, vốn là những protein có trong bộ não và cơ với nhiệm vụ hỗ trợ cho sự tăng trưởng và sinh tồn của các nơron. Mãi cho đến khi các cuộc thí nghiệm quy mô lớn về bốn yếu tố không thể cải thiện được những triệu chứng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên thì lĩnh vực này đã trở thành một nguồn hy vọng chính trong giới nghiên cứu. Cho đến thời điểm này, các nhà khoa học vẫn đang làm việc với các yếu tố và những phương thức mới để đưa ra được các liệu pháp điều trị.
Ví dụ, một cuộc nghiên cứu lâm sàng về yếu tố Phát triển 1 kiểu Insulin (IGF-1, hay myotrophin) đã bắt đầu được thực hiện vào năm 2003 để xem liệu thuốc có làm chậm diễn tiến của hiện tượng yếu đi ở chứng bệnh xơ cứng teo cơ cột bên hay không. IGF-1 cần thiết cho sự phát triển bình thường của hệ thần kinh và dường như nó có chức năng bảo vệ các nơron thần kinh trong các mẫu động vật. Người ta cho rằng nó cản trở các đường chết tự nhiên của tế bào và thúc đẩy quá trình phục hồi phân bổ dây thần kinh của cơ và quá trình tăng trưởng và tái sinh của axon.
Máu dây rốn/các tế bào gốc: Nghiên cứu trên động vật đưa ra giả thuyết về vai trò lâm sàng của máu dây rốn/tế bào gốc trong tĩnh mạch và trên thực tế ở một số phòng khám người ta đã chuẩn bị sẵn những tế bào này cho những người mắc bệnh xơ cứng teo cơ cột bên. Hiện tại vẫn chưa có một cuộc thử nghiệm cuối cùng, đảm bảo sự an toàn lâu dài hay có những kết quả như mong muốn. Một số bệnh nhân đã cho Hiệp hội xơ cứng teo cơ cột bên biết rằng thể trạng và chức năng của họ đã được cải thiện sau khi họ được cấy các tế bào này. Cánh cửa đã hé mở cho nhiều cuộc nghiên cứu sâu hơn.
Hỗn hợp thuốc: các chương trình nghiên cứu về xơ cứng teo cơ cột bên trên chuột gần đây đã cho thấy những lợi ích đáng kinh ngạc qua việc sử dụng một hỗn hợp thuốc, bao gồm riluzole (thuốc duy nhất cho tới thời điểm này được FDA chấp thuận cho sử dụng để điều trị bệnh xơ cứng teo cơ cột bên), nimodipine (loại thuốc chặn kênh can-xi được sử dụng trong việc điều trị chứng bệnh đột quỵ cấp tính và đau nửa đầu) và minocycline (một thuốc kháng sinh có thể ngăn chặn tình trạng viêm tấy). Dường như khi các hợp chất này phối hợp với nhau thì chúng làm giảm quá trình chết tự nhiên của tế bào, ngăn ngừa tình trạng mất tế bào thần kinh và làm giảm viêm tấy. Các nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra những hỗn hợp thuốc khác giúp đảm bảo sự sinh tồn cho các tế bào thần kinh, bao gồm các chất ức chế proteaza có đặc tính ngăn ngừa quá trình chết tự nhiên của tế bào và các thuốc chống vi-rút khác. Những người mắc HIV và xơ cứng teo cơ cột bên cho biết sức khỏe của họ có cải thiện sau khi dùng "Hỗn hợp thuốc AIDSl" với tác dụng tìm diệt vi-rút. Điều này đặt ra giả thuyết là cơ chế hoạt động của vi-rút có thể có liên quan đến một số dạng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên.
Các thuốc đã được FDA chấp thuận để điều trị những chứng bệnh khác hiện đang được thử nghiệm để điều trị các triệu chứng của bệnh xơ cứng teo cơ cột bên, bao gồm buspar (điều trị chứng lo âu) và Celebrex (điều trị bệnh viêm khớp). Cả hai loại thuốc đã cho thấy tác dụng tích cực đối với tuổi thọ của những con chuột bị mắc các chứng bệnh tương tự như xơ cứng teo cơ cột bên. Thuốc điều trị bệnh ung thư vú tamoxifen (Nolvadex) đã cho thấy tác dụng có lợi qua các cuộc thử nghiệm trên chuột; các cuộc nghiên cứu lâm sàng vẫn đang được thực hiện.
Một loại thuốc có tên là AVP-923 (dextromethorphan/loại thuốc làm chậm nhịp tim, dùng để kiểm soát nhịp tim tăng hay bất thường) đang được thử nghiệm để điều trị chứng tinh thần bất ổn (cười và khóc không chủ ý) ở những người mắc bệnh xơ cứng teo cơ cột bên. Các cuộc thử nghiệm lâm sàng cũng đang tiến hành đối với creatine, một chất hóa học được sinh ra tự nhiên tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cơ có thể giúp những người mắc xơ cứng teo cơ cột bên.
Bài viết cùng chuyên mục
Tại sao chúng ta mỉm cười?
Sau khi phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu kết luận rằng tâm trạng dường như được kết hợp với việc cười thường xuyên nhất, đơn giản là sự tham gia
Bệnh tiểu đường: có thực sự có 5 loại?
Sự phân tầng phụ mới này, cuối cùng có thể giúp điều chỉnh, và nhắm mục tiêu điều trị sớm, cho những bệnh nhân có lợi nhất
Xơ vữa động mạch: có thể loại bỏ và tránh gây tắc mạch
Xơ vữa động mạch, trong đó mảng bám tích tụ trong các động mạch, có thể ngăn máu giàu oxy đi qua các mạch máu để cung cấp cho phần còn lại của cơ thể
Đau vai do thần kinh bị chèn ép: điều gì đang xẩy ra?
Bác sĩ thường sẽ khuyên nên điều trị nội khoa đầu tiên, nếu cơn đau không đáp ứng với những cách điều trị này hoặc trở nên tồi tệ hơn, thì bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật
Nồng độ CO2 và O2: khẩu trang có tác động tiêu cực không đáng kể
Khẩu trang đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm tiếp xúc với vi rút và hạn chế số lượng vi rút mà một người có thể lây sang người khác. Ngày càng có sự đồng thuận về giá trị của khẩu trang trong việc giảm sự lây lan của SARS-CoV-2.
Viêm tủy ngang (Transverse Myelitis)
Tình trạng mất chất myelin thường xảy ra ở mức tổn thương ở ngực, gây ra những vấn đề về cử động ở chân và khả năng kiểm soát đại tràng và bàng quang
Kích thước vòng eo: dự đoán nguy cơ mất trí nhớ?
Những người có chu vi vòng eo, bằng hoặc cao hơn 90 cm đối với nam, và 85 cm đối với nữ, có nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ cao hơn
Covid-19: những đối tượng nên xét nghiệm
Những người được tiêm chủng đầy đủ vắc xin COVID-19 nên được nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đánh giá và xét nghiệm COVID-19 nếu được chỉ định.
Vắc xin COVID-19 toàn cầu: hiệu quả và các dụng phụ
Hiện nay, ở các khu vực khác nhau trên thế giới, 13 loại vắc xin COVID-19 đã được phép sử dụng. Trong tính năng này, chúng tôi xem xét các loại và tác dụng phụ được báo cáo của chúng.
Chất Fluoride trong kem đánh răng và nước: có bằng chứng ảnh hưởng đến IQ
Fluoride là một khoáng chất dễ dàng liên kết với xương và răng, nó thường được sử dụng trong nha khoa, để thúc đẩy tái tạo trong lớp men răng bên ngoài
Dịch truyền tĩnh mạch: điều trị nhiễm toan chuyển hóa
Một nghiên cứu gần đây, đã ghi nhận rằng, natri bicarbonate được cung cấp trong các liều bolus nhỏ, không dẫn đến nhiễm toan nội bào
Suy giảm nhận thức: các yếu tố bảo vệ
Các hoạt động xã hội đòi hỏi phải tham gia vào một số quá trình tinh thần quan trọng, bao gồm sự chú ý và trí nhớ, có thể thúc đẩy nhận thức.
Bệnh tiểu đường tuýp 2 và tuổi thọ
Bệnh tiểu đường tuýp 2 được cho là có ít ảnh hưởng đến tuổi thọ hơn tuýp 1 vì người ta thường phát triển tình trạng này sau này trong cuộc sống
Covid-19 nhẹ: tạo ra kháng thể bảo vệ lâu dài
Các phát hiện được công bố ngày 24 tháng 5 trên tạp chí Nature, cho thấy rằng những trường hợp Covid-19 nhẹ khiến những người bị nhiễm có khả năng bảo vệ kháng thể lâu dài và những đợt bệnh lặp đi lặp lại có thể là không phổ biến.
Liệt cứng (Spasticity)
Liệt cứng cũng gây ra một trạng thái trong đó các cơ nhất định co thắt liên tục. Tình trạng cơ cứng hoặc căng cơ này ảnh hưởng tới dáng đi, chuyển động và lời nói.
Rối loạn lo âu sau đột quỵ: chẩn đoán và can thiệp
Rối loạn lo âu sau đột quỵ, có thể hôn mê, với chứng trầm cảm sau đột quỵ, và có thể phổ biến hơn ở vỏ não, so với đột quỵ dưới vỏ não
Mang thai và chuyển dạ: những điều cần biết
Các cơn co thắt Braxton Hicks không xảy ra đều đặn và chúng không tăng cường độ, nếu trải qua các cơn co thắt thường xuyên trước tuần 37, đó có thể là sinh non
Cố gắng để trở nên hoàn hảo có thể gây ra lo lắng
Không ai có thể là người cầu toàn về mọi thứ, hãy suy nghĩ về các mục tiêu và dự án hiện tại, và chỉ định các ưu tiên của chúng
Mất ngủ: một giải pháp điều trị đáng ngạc nhiên
Khi nguyên nhân cơ bản được điều trị thành công, chứng mất ngủ thường biến mất, nếu không, tập trung vào việc cải thiện giấc ngủ có thể hữu ích
Phụ nữ eo hình bánh mỳ: có thể tăng nguy cơ đau tim
Vòng eo và nguy cơ đau tim: Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ mạnh mẽ giữa việc tăng kích thước vòng eo, đặc biệt là tỷ lệ eo/hông lớn, và nguy cơ mắc bệnh đau tim, đặc biệt ở phụ nữ.
Dấu hiệu và triệu chứng mang thai: những điều cần biết
Có thể nhận thấy một số dấu hiệu và triệu chứng trước khi thử thai, những triệu chứng khác sẽ xuất hiện vài tuần sau đó, vì mức độ hormone thay đổi
Cô đơn: có thể làm tăng nguy cơ tử vong ở người mắc bệnh
Bệnh nhân cô đơn, có nguy cơ tử vong sau khi rời bệnh viện cao hơn, báo cáo của The Independent cho biết
Giảm cân nhiều gấp 5 lần bằng cách rèn luyện tâm trí
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người tham gia đã trải qua FIT đã giảm trọng lượng gấp 5 lần, trung bình, so với những người đã trải qua MI
Phải làm gì khi bị tắc sữa
Trong bài viết này, chúng tôi xem xét các triệu chứng và nguyên nhân gây tắc nghẽn ống dẫn, biện pháp khắc phục tại nhà để thử và khi nào cần đi khám bác sĩ
Covid-19: vắc xin khi mang thai hoặc cho con bú
Mặc dù nguy cơ bị bệnh nặng nói chung là thấp, nhưng những người đang mang thai và sắp mang thai có nguy cơ bị bệnh nặng do Covid-19 tăng lên khi so sánh với những người không mang thai.