Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

2016-06-11 03:32 PM

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Thương tổn có ngứa, rỉ nước hoặc liken hóa, thường ở mặt, cổ, phía trên của thân, vùng thắt lưng, tay và khoeo tay, khoeo chân.

Có tiền sử gia đình hoặc bản thân về bệnh dị ứng như: hen, viêm mũi dị ứng, chàm.

Có xu hướng tái phát, bệnh thuyên giảm từ khi dậy thì đến 20 tuổi.

Đánh giá chung

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy. Tuy nhiên, ở giai đoạn cấp tính của bệnh biểu hiện chủ yếu là những mảng da đỏ, bóng và rỉ nước nhiều hoặc mảng liken hóa (da dày lên, các nếp da rõ hơn) và có sẩn. Tiêu chuẩn chẩn đoán chàm thể tạng gồm: có ngứa, có hình thái lâm sàng và vị trí khu trú điển hỉnh (da dày và liken hóa ở mặt gấp của chi ở người lớn, ở mặt và mặt duỗi của chi ở trẻ nhỏ); có xu hướng tái đi tái lại, và trở thành mạn tính.

Các yếu tố hỗ trợ gồm:

(1) Có tiền sử bản thân và gia đình về bệnh dị ứng như hen, viêm mũi dị ứng.

(2) Lòng bàn tay xơ, khô và các nếp vân tay rõ;

(3) Mặt xanh xao với quầng đen ở vùng dưới mi mắt;

(4) IgE huyết thanh tăng;

(5) Có xu hưởng trở thành viêm da không đặc hiệu ở tay và chân;

(6) Dễ bị nhiễm khuẩn da.

Triệu chứng và dấu hiệu

Ngứa có thể dữ dội và kéo dài làm cho bệnh nhân khó chịu. Rất khó để mô tả một cách chính xác sự xuất hiện của chàm ở giai đoạn cấp mà lại không chảy nước, trừ có biểu hiện viêm ở thượng bì. Vậy viêm da biểu hiện là các ban đỏ với bề mặt thượng bì không đổi và trung bì bị viêm sẽ tạo ra hình ảnh đặc trưng của sự phát ban. Viêm thượng bì cấp tính gây nên mảng da đỏ, ráp nhưng không có sự quá sản và dày lên của thượng bì như trong vảy nến.

Vị trí khu trú của thương tổn rất đặc hiệu, thường ở mặt, cổ, và phần trên của thân mình giống như "Mũ trùm đầu của thầy tu". Khủyu tay, khủyu chân cũng bị. Ở trẻ nhỏ, thương tổn mụn nước và rỉ nước thường bắt đầu từ má. Ở trẻ lớn, thương tổn thường khô, dai và liken hóa, xét nghiệm giải phẫu bệnh đôi khi có hình ảnh của mụn nước ở thượng bì. Ở trẻ da đen thương tổn thường sẩn thay thế các thương tổn mảng da có vảy ở người da trắng. Còn ở người lớn nói chung, các tổn thương thường khô, dai, nhiễm sắc tố hoặc không khu trú ở những vùng đặc biệt, ớ người da đen bị bệnh nặng, có thể không có hiện tượng nhiễm sắc tố ở những vùng thương tổn liken hóa ở quanh cổ chân và cổ tay.

Vai trò của thức ăn gày dị ứng trong chàm thể tạng đang còn là một vấn đề tranh cãi, nhưng có tính chất gợi ý trong 30% trường hợp. Thức ăn có thể gây ra bệnh do thức ăn làm giải phóng histamin và giải phóng yếu tố của bạch cầu ái kiềm. Một số bệnh nhận khác có thể dị ứng với bụi và các kháng nguyên khác.

Cận lâm sàng

Test rạch da và test trung bì có thể gây dương tính giả do đó không cần thiết phải ăn kiêng.

Tìm thức ăn gây bệnh, rất đáng tin cậy nhưng thường không đúng với yếu tố làm nặng bệnh.

Bạch cầu ái toan và IgE tăng trong máu nhưng thường không cần thiết cho chẩn đoán.

Chẩn đoán phân biệt

Ở trẻ nhỏ cần chẩn đoán phân biệt với viêm da dầu (thương tổn có vảy xám bẩn ở mặt, đầu, và đáp ứng với điều trị). Với viêm da tiếp xúc và chốc, đặc biệt giai đoạn tối cấp của chàm, có chảy nước nhiều (mặc dù những bệnh này không bao giờ trở thành mạn tính và không có vị trí khu trú đặc biệt).

Giai đoạn vượng bệnh hầu hết bệnh nhân có bội nhiễm tụ cầu và chốc hóa, nên chú ý và điều trị bệnh nhân khi bệnh nhân có biểu hiện chảy nước và những vùng rỉ nước nhỏ, không nên nhầm lẫn với những đường xây xước.

Điều trị

Điều trị rất có hiệu quả nếu như bệnh nhân được truyền kiến thức về cách chăm sóc da và phương pháp đặc biệt trong điều trị.

Biện pháp chung

Da của những bệnh nhân này thường rất kích thích, vì vậy, trước hết phải giải thích cho họ biết rằng tất cả những chất làm khô da hoậc gây kích thích da đều trở thắnh vấn đề đối với bệnh nhân. Những người có thể tạng dị ứng rất nhạy cảm với độ ẩm ở mức thấp và thường nặng lên vào mùa đông, khi mà thời tiết khô hanh. Một phương pháp giải quyết hợp lý là không để những người này tắm quá một lần một ngày, không được ngồi tắm trong nước xà phòng, và không cho phép họ dùng phương pháp tắm bọt trừ khi chúng không gây kích thích da. Xà phòng chỉ nêh dùng ở vùng nách, bẹn và chân, và chỉ nên dùng ngay trước lúc xả nước tức là ngay trước khi kết thúc tắm. Nên tránh giặt giũ quần áo và trà sát da. Không nên dùng loại xà phòng gây khô da, nên dùng những loại như: Dove, Eucerin, Aveeno, Basic, Alphakeri, Emulave, Purpose, và những loại xà phòng, chất tẩy rửa khác như Cetaphil, hoặc Aqụanil. Một giới thiệu gần đây về chất làm sạch da có chứa 30% petrolatum, Prothera, cũng rất có lợi cho bệnh nhân có da khô. Sau khi tắm, nên thấm khô da (không lau), rồi ngay sau đó, trước khi da khô hoàn toàn phủ lên da một lớp mỏng chất làm mềm da như: Aquaphor, Eucerin, Vaselin, dầu mỏ, hóậc corticosteroid khi cần thiết. Vì bệnh nhân chàm thế tạng có thể bị kích thích ngứa bởi các sợi như sợi bông, và sợi acrylics, họ nên mặc quần áo rộng. Cotton là chất hay dùng, nhưng sợi pha tổng hợp cũng tốt. Một vài trẻ nhỏ bắt đầu một chu kỳ ngứa và gãi khi toát mồ hôi, nên tránh quá nóng cho bệnh nhân. Một vài bệnh nhân không thể dùng thuốc dạng mỡ vì chúng làm bít da hơn loại kem và gây ngứa. Tắm nước quá nóng cũng có thể làm cho ngứa tăng lên ở một số bệnh nhân. Một vài bệnh nhân không chịu được bụi của gia súc, và nguyên nhân gây bệnh của súc vật nên được quan tâm.

Để xác định được khả năng gây bệnh của thức ăn, các bậc cha mẹ có thể hạn chế một thức ăn đúng thời điểm mà nghĩ nó là nguyên nhân gây vượng phát bệnh. Những sản phẩm hàng ngày và lúa mì là nguyên nhân gây bệnh chính. Những thức ãn gáy bệnh điển hình gây ngứa trong vòng vài phút hoặc vài giờ sau ăn.

Điều trị tại chỗ

Các dạng thuốc bôi corticosteroid như: kem, mỡ hoặc dung dịch đã hoàn toàn thay thế các thuốc bôi khác nhưng không nên là thuốc điều trị duy nhất khi bệnh nặng. Thuốc nên bôi thường chỉ hai lần một ngày. Nồng độ thuốc phải dựa vào loại viêm da. Nhưng nói chung, nên bắt đầu bằng hydrocortison hoặc desonid sau đó chuyển sang loại triamcinolon 0,1% khi cần cho người trẻ. Điều quan trọng là bệnh nhân phải biết cách hạ liều dần thuốc bôi corticosteroid và biết cách dùng các chất làm ấm da khi thương tổn đã sạch để tránh sự miễn dịch nhanh và tránh tấc dụng phụ của thuốc. Sự hạ liều thuốc còn có tác dụng để tránh sự bùng lên của bệnh khi dùng thuốc đột ngột.

Điều trị nên dựa vào giai đoạn bệnh:

Chàm cấp: Nên dùng nước muối sinh lý, bicarbonat, dung dịch alumiun. subacetat (viên domeboro, pha 1 viên trong khoảng 0,5 lít nước lạnh). Hoặc keo bột yến mạch (Aveen, pha chế trong một cái hộp, và dùng trực tiếp) như chất làm dịu và se da bằng cách ngâm tắm, hoặc đắp trong vòng 10 - 30 phút/lần và làm 2 - 4 lần/ngày. Thương tổn ở tay và chân nên băng lại để chống rỉ nước vào ban đêm nhưng không được để băng dính vào da. Ở giai đoạn này, steroid dạng dung dịch và dạng kem hay dùng hơn mỡ. Người lớn nên dùng steroid bôi loại nồng độ cao và trẻ em nên dùng nồng độ trung bình, dùng sau khi tắm và bôi lớp mỏng ở vùng mạt và các nếp gấp.

Chàm bán cấp: Ở giai đoạn này, thương tổn khô nhưng còn đỏ và ngứa. Đáp thuốc để chổng rỉ nước không cần thiết nữa. Nên dùng mỡ steroid nồng độ trung bình hoặc nồng độ cao nếu bệnh nhân chịu được, và dùng dạng kem nếu không chịu được, nên dùng liên tục cho đến khi các tổn thương vảy nổi cao và ngứa hết hoàn toàn. Trong vòng 2 - 4 tuần đầu bệnh nhân nên bôi 2 lần một ngày, rồi giảm dần 1 lần/ngày, rồi cách một ngày một lần, sau đó chỉ dùng chất ẩm da, thỉnh thoảng dùng steroid một lần ở vùng ngứa. Đối với trẻ em, thay thế cách hạ dần nồng độ steroid bằng cách dùng cố định loại steroid nồng độ thấp như kem Hydrocortison (hytone 1% hoặc loại khác) hoặc aclometason.

Chàm mụn: Thương tổn khô, dày, liken hóa và có ranh giới rõ. Tốt nhất là điều trị bàng mỡ steroid nồng độ cao và rất cao, thỉnh thoảng băng bịt 2 - 6 tuần. Đôi khi, các sản phẩm của Tar như LCD 5% trong aquaphor, hoặc kem Fototar có thể có tác dụng khi steroid không có hiệu lực

Điều trị toàn thăn và điều trị trợ giúp

Chỉ dùng corticosteroid toàn thân khi thương tổn nặng và lan rộng. Liều prednison uống nên bắt đầu đủ cao để khống chế được thương tổn viêm một cách nhanh chóng, thông thường người lớn nên bắt đầu với liều 60mg/ngày, sau đó hạ liều dần cho tới hết trong vòng 2 - 4 tuần.

Triamcinolon acetonid 40 - 60mg tiêm bắp, 4 - 6 tuần tiêm 1 lần, có thể dùng để kiểm soát bệnh, nhưng đây không phải là phương pháp tốt để điều trị duy trì.

Trong trường hợp ngứa dữ dội, có thể dùng kháng histamin. Hydroxyzin, brompheniramin hoặc doxepin cũng có tác dụng giảm ngứa nhưng phải tăng liều dần để tránh gây buồn ngủ. Rât nhiều bệnh nhân có IgE chống các độc tố của tụ cầu, phản ứng với kháng nguyên của tụ cầu và kháng thể đặc hiệu của tụ cầu làm cho các dưỡng bào giải phóng các chất trung gian gây ngứa và làm cho bệnh vượng lên. Có thể bội nhiễm tụ cầu, thương tổn trở nên nứt nẻ, có vảy tiết, có mụn mủ, và rỉ nước. Vì vậy, cần dùng kết họp kháng sinh chống tụ cẩu toàn thân như dicloxacillin, cephalosporin khi thương tổn vượng lên. Điều trị bằng ánh sáng là một phương pháp điều trị trợ giúp có hiệu quả trong trường hợp bệnh nặng hoặc bệnh tồn tại không thuyên giảm, có thể dùng UVB, cả UVB và UVA có hoặc không kết hợp với hắc ín than đá hoặc PUVA.

Biến chứng của điều trị

Bệnh nhân rất dễ bị tác dụng phụ khi dùng corticosteroid không đúng, và bác sĩ nên theo dõi sự teo da.

Eczema herpeticum là loại herpes thông thường, biểu hiện lâm sàng là các mụn nhỏ đồng đều, hoặc vết trợt nông trên bệnh nhân bị chàm thể tạng hoặc chàm lan toả khác, điều trị tốt nhất là dụng acyclovir 400mg x 5 lần/ngày cho người lớn, hoặc acyclovir 10mg/kg cân nặng, tiêm tĩnh mạch 8 giờ/lần (500mg/m vuông 8 giờ/lần).

Tiên lượng

Bệnh tiến triển mạn tính, thường có xu hướng khỏi rồi lại tái phát. Nhiều trẻ bị bệnh lan toả cho tới khi trưởng thành và tiến triển thành chàm ở tay khi lớn. Những yếu tố tiên lượng kém thuyên giảm hoàn toàn là bệnh sớm lan rộng và có hen. Chỉ có 40 - 60% thuyên giảm hoàn toàn.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.