- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Từng nhóm mụn nước nhỏ trên nền da đỏ, đặc biệt khu trú ở vùng quanh miệng và vùng sinh dục. Bệnh hay tái phát.
Bệnh có thể xảy ra sau một nhiễm khuẩn nhẹ, xây xưâc, stress hoặc tiếp xúc với ánh nắng, hạch lân cận có thể sưng to và mềm.
Xét nghiệm chẩn đoán tế bào Tzanck thấy có tế bào đa nhân khổng lồ, nuôi cấy tìm virus, xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gắn men (ELISA) và miễn dịch huỳnh quang dương tính.
Đánh giá chung
Trên 85% người lớn có phản ứng huyết thanh dương tính với virus herpes simplex typ 1, hầu hết những người này không có triệu chứng mắc bệnh khi còn nhỏ. Hoặc đôi khi, bệnh có biểu hiện như một viêm lợi nặng khi còn ở lứa tuổi nhỏ. Rồi sau đó, bệnh thường tái phát sau sốt, sau nhiễm virus, khi mệt mỏi, kỳ kinh nguyệt và những yếu tố khác như nắng, gió rồi bệnh lại tự khỏi. Ở những bệnh nhân AIDS và hiếm khi cả ở một số người có hệ miễn dịch bình thường, herpes simplex typ 1 có thể gây viêm não đơn phát.
Herpes simplex typ 2 gây ra các thương tổn ở vùng sinh dục có hình thái và có tiến triển bệnh giống nhau ở cả hai giới. Bệnh lây truyền qua đường tình dục, và thường không có triệu chứng. Một nghiên cứu mới đây ở những đôi có quan hệ đồng tình luyến ái, trong đó một người bị nhiễm herpes simplex typ 2 thì khả năng truyền bệnh cho người không bị nhiễm là 10% trong thời gian một năm. Có tới 70% trường hợp bị lây nhiễm như vậy trong giai đoạn lây lan không triệu chứng. Khả năng nữ bị nhiễm nhiều hơn nam, đặc biệt, khi họ có huyết thanh âm tính với herpes simplex typ 1. Viêm tủy cắt ngang, đau do viêm thần kinh khi thương tổn có ở vùng cùng cụt, và viêm não là những biến chứng hiếm gặp.
Tríệu chứng và dấu hiệu
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát. Thương tổn cơ bản gồm các nhóm mụn nước nhỏ, khu trú ở bất cứ nơi nào trên cơ thể nhưng thường khu trú ở môi, miệng và mông. Các hạch lympho lân cận có thể sưng và đau. Cuối cùng thương tổn đóng vảy và hết viêm nhiễm sau khi vảy bong. Đã chứng minh được là các bệnh nhân này có thể được giáo dục y tế để nhận biết được mỗi lần phát bệnh mà trước đây họ không nhận biết được đây là tái phát của herpes simplex. Virus herpes cũng có thể gây ra đau mạn tính, loét quanh hậu môn ở những bệnh nhân AIDS.
Cận lâm sàng
Những thương tổn mà lâm sàng chẩn đoán như là hạ cam, giang mai, viêm da mủ, hoặc xây xước do sang trấn đều có thể tìm thấy nhiễm virus herpes simplex khi nuôi cấy. Xét nghiệm tìm kháng thể bằng phương pháp kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp cho chẩn đoán nhanh và nhạy. Nuôi cấy virus mặc dù độ nhạy không cao, nhưng cũng rất có ích để khẳng định chẩn đoán lâm sàng.
Chẩn đoán tế bào Tzanck cho thấy có tế bào đa nhân khổng lồ là một xét nghiệm kém nhạy nhất, nhưng nó cũng có giá trị và dễ tiến hành để chẩn đoán herpes simplex, zona.
Biến chứng
Các biến chứng gồm viêm da mủ, chàm hóa, herpes đầu ngón tay, herpes thượng bì ở những người đô vật lây truyền do tiếp xúc, viêm thực quản, truyền cho bào thai qua nhau thai, viêm kết mạc và viêm não nguy kịch.
Dự phòng
Dự phòng bằng cách uống acyclovir có thể phòng được một số trường hợp tái phát, nhưng không phải phòng được tất cả các trường hợp tái phát mà có thể biết trước như tái phát do ánh nắng hoặc tái phát trước khi hành kinh. Nên điều trị dự phòng bằng cách bắt đầu với liều acyclovir 200 mg uống 5 lần một ngày, uống trước 24 giờ trước khi ra tiếp xúc với ánh nắng. Kem chống nắng cũng có thể mang lại kết quả tốt trong phòng chống tái phát do ánh nắng.
Điều trị
Điều trị toàn thân
Acylovir có tác dụng toàn thân (tiêm tĩnh mạch hoặc uống), và khi thuốc được sử dụng đúng thì thuốc sẽ không độc. Đối với khởi phát của herpes sinh dục, uống 200 mg acyclovir 5 lần một ngày, hoặc 400mg 3 lần một ngày, hoặc 800 mg 2 lần một ngày uống trong 10 ngày có thể làm rút ngắn giai đoạn lây lan bệnh và làm giảm các triệu chứng đau, đóng vảy và các triệu chứng khác, thúc đẩy quá trình lành bệnh. Acyclovir cũng có tác dụng dự phòng herpes sinh dục tái phát nếu được dùng với liều ức chế 200 mg 3 lần một ngày hoặc 400 mg 2 lần một ngày duy trì. Nếu bệnh tái phát không thường xuyên (cứ 3 - 6 tháng tái phát một lần), thì điều trị từng đợt như mô tả ở trên có tác dụng làm ngắn thời gian tái phát và sự lây lan của virus xuống vài ngày kể từ khi dấu hiệu hoặc triệu chứng tái phát đâu tiên xuất hiện. Dùng acyclovir trong thời gian dài có hiệu qủa tốt và an toàn. Acyclovir không có tác dụng điều trị trong trường hợp họng và miệng trợt ra không triệu chứng.
Liệu pháp tại chỗ
Bôi tại chỗ đặc biệt không có tác dụng, tranh cãi nhất là loại mỡ acyclovir 5%, nếu được dùng như thế, sẽ bị hạn chế sử dụng đối với các chỉ định hạn hẹp mà đã được chuẩn y, có nghĩa bị herpes sinh dục và herpes niêm mạc khởi phát ở trên những bệnh nhân có tổn thương về miễn dịch, bởi vì sự thúc đẩy khuynh hướng kháng thuốc của virus và khả năng thay đổi của thuốc. Có nhiều trường hợp kháng thuốc ở những bệnh nhân có thương tổn về hệ miễn dịch và một bệnh nhân có hệ có hệ miễn dịch hoàn toàn bình thường đã được thông báo. Quần áo và khăn của bệnh nhân có thể nhiễm virus trong một vài giờ vì vậy bệnh nhân cần được cách ly với các thành viên khác trong gia đình.
Tiên lượng
Bên cạnh các biến chứng đã được nêu ở trên, mỗi đợt tái phát kéo dài vài ngày và bệnh khỏi không để lại di chứng.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Chai chân: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.