Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

2016-06-09 11:09 AM

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Trị liệu bằng thuốc bôi

Nói chung, tốt hơn hết là chúng ta nên thật thông thạo một vài loại thuốc và phương pháp điều trị hơn là chúng ta sử dụng thật nhiều lọại. Thêm vào đó là không phải tất cả các chất thuốc gốc dùng bôi ngoài da đều tương đương, như các biệt dược được sản xuất về hiệu lực và về các phụ dược "trơ" có trong công thức thuốc có thể gây dị ứng hoặc gây kích thích da. Chúng ta nên ghi nhớ, tất cả những điều trên khi đánh giá về tác dụng phụ và hiệu lực của thuốc. Khi nghi ngờ về phương pháp điều trị, chúng ta nên dùng liều nhỏ, hơn là dùng quá liều. Khi sử dụng thuốc bôi có chứa corticosteroid mạnh kéo dài, không đúng phương pháp mà không được theo dõi, có thể gây tác dụng phụ không thể đảo ngược được.

Những biến chứng của của trị liệu bằng thuốc bôi

Những biến chứng của trị liệu bằng thuốc bôi có thể tránh được phần lớn bằng cách sử dụng đúng.

Dị ứng

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Kích thích da

Các thuốc pha chế thuộc nhóm Acid retinoic, Benzoyl peroxid, và các thuốc chữa trứng cá khác nên được dùng một cách phù hợp và đúng chỉ dẫn. Dùng đi dùng lại lindan và các loại xà phòng kháng khuẩn có thể gây kích thích da. Podophyllum cũng có thể rất gây kích thích da; Kem chống nắng có yếu tố chống nắng cao cũng có thể gây kích thích da ở một vài bệnh nhân.

Sự hấp thu

Thuốc có thể bị hấp thu qua da, đặc biệt là vùng da gần niêm mạc, qua vùng da bị xây xước hoặc vùng da bị viêm, hoặc từ vùng da được băng bịt. Nói chung liều hấp thu vào cơ thể ở trẻ em nhiều gấp 3 lần so với người lớn. Chúng ta nên nhớ rằng không được dùng Podophyllum resin cho phụ nữ có thai. Lindan không được dùng cho phụ nữ có thai và trẻ em, nó có thể được thay thế bằng kem Permethrin 5% ở trẻ em, và đối với phụ nữ có thai, có thể thay bằng Permethrin hoặc Sulfua kết tủa. Những chất có chứa phenol chống chỉ định dùng ở vùng bị da bị xây xước hoặc niêm mạc của trẻ em. Sử dụng thiếu cân nhắc các thuốc bôi loại corticosteroid mạnh và trung bình với số lượng lớn, hoặc dùng thời gian quá dài, đặc biệt là băng bịt thuốc bằng nilon có thể gây ra hậu quả đáng chú ý như hấp phụ qua đường toàn thân, hậu quả hiếm gặp là suy thượng thận - yên và hoại tử xương vô khuẩn.

Dùng quá liều

Thuốc bôi corticosteroid có thể gây các thương tổn giống trứng cá ở trên mặt (trứng cá đỏ do steroid), gây teo da và rạn da ở các nếp da.

Biện pháp điều trị được sử dụng thường xuyên

Biện pháp chung

Xà phòng và những chất tẩy rửa chỉ nên dùng ở vùng nách, bẹn và chân của những người có da khô và da dễ bị kích thích. Trừ những người mà nghề của họ phải tiếp xúc với dầu mỡ và chất dơ bẩn, hầu hết chúng ta không nhất thiết phải dùng xà phòng trên toàn bộ bề mặt của dạ, và khi nắm được kiến thức như vậy họ sẽ sử dụng tuân theo những giới hạn này hơn là cấm hoàn toàn dùng xà phòng. Tạm với nước có thêm một ít dầu tắm có thể được, nhưng nó kém hiệu quả hơn là bôi dầu ngay sau khi tắm.

Biện pháp tại chỗ

Corlicosteroid

Các đại diện thuốc corticosteroid bôi như: dạng kem, dung dịch, dạng mỡ, dạng gel; dạng phun được trình bày trong bảng. Chúng cơ bản có lợi trong điều trị các bệnh viêm da có ngứa. Việc pha chế thuốc theo nguyên tắc chung sau: trung bình cứ 20 - 30g bôi một lần toàn bộ bề mặt da của người lớn.

Loại có tác dụng nhẹ:

Hydrocortison.

Desonid.

Alcloinetason dịpropionat.

Loại này dùng tốt nhất cho các vùng mặt, bẹn, và các nếp gấp của da và dùng mạn tính. Tuy nhiên nếu dùng kéo dài, không có giám sát thì Desonid có thể gây tác dụng phụ ở một số bệnh nhân.

Loại có tác dụng trung bình:

Flurandrenolid.

Fluocinolon.

Triamcinolon.

Hydrocortison valerat.

Hydrocortison butyrat.

Betamethason valerat.

Mometason furoat ..vv

Loại có tác dụng mạnh:

Desoximetason.

Amcinonid.

Halcinonid.

Fluocinoniđ.

Betamethason dipropionat …vv

Loại có tác dụng rất mạnh:

Betamethason dipropionat trong điều kiện tối ưu.

Diflorason.

Clobetason.

Halobetason.

Loại này chỉ nên dùng trong một giai đoạn ngắn, ở vùng thương tổn khu trú, và cũng giống như loại steroid mạnh và trung bình, không được dùng cho các vùng mặt, ngực, bộ phận sinh dục, và các nếp gấp của da.

Tác dụng của kem bôi corticosteroid

Bằng cách bôi có chọn lọc lên các thương tổn của vảy nến, hoặc liken phẳng hoặc chàm vào các buổi tối, thời gian đầu bôi corticosteroid loại có tác dụng nhẹ rồi được băng bịt lại bằng giấy bóng kính mỏng, sau đó nồng độ của thuốc bôi steroid sẽ được tăng dần lên. Đối với đỏ da toàn thân do vảy nến hoặc chàm thể tạng có thương tổn lan rộng thì điều trị bằng cách băng bịt một cách thích hợp có thể mang lại kết quả tốt. Tuy nhiên có một số tác dụng phụ như hạt kê, rạn da, viêm da mủ, teo da tại chỗ, có mùi hôi và bội nhiễm nấm. Rất hiếm gây suy thượng thận khi băng bịt một vùng rộng của da. Clobetason và Halobetason không nên băng bịt.

Giữ ẩm cho da

Có thể dùng các chất sau: Pétrolatum, dầu mỏ, Aquaphor, hoặc kem Eucerin. Nếu như da quá khô có thể làm cho da ẩm, như tắm để làm ướt lớp keratin, và sau khi thấm khô bằng khăn nên bôi một trong các chất trên để giữ cho da ẩm. Dầu mỏ phải bôi ngay khi da còn ướt. Không nên chà xàt da làm thương tổn tới cảc nang lông gây viêm nang lông mà chỉ nên lau nhẹ theo một chiều nhất định. Nếu da trở nên quá nhờn sau khi bôi thuốc thì nên dùng khăn ẩm thấm khô.

Trong một số trường hợp, các dung dịch như Lubriderm, Natraderm, Eucerin, và Moisturel có thể rất tốt vì chúng không gây nhờn quá như các loại mỡ và kem. Có thể gây ngứa, khô da và bệnh vẩy cá khi dùng dung dịch Lactat 12% (Lac-Hydrin) hay dung dịch glycolic acid (OTC) ở những vùng không viêm.

Các chất làm khô da

 Nếu như da trở nên rỉ nước do viêm hoặc nhiễm khuẩn thì việc làm cho da khô là rất cần thiết. Chất làm khô da tốt nhất là nước và đắp liên tục, có hoặc không có thêm các chất như muối nhôm (dung dịch Burow, viên Domeboro), keo bột yến mạch là bước ban đầu tốt, các dung dịch hồ như hồ nước và bột có thể gây vảy bẩn khi dùng các thuốc này không đúng nguyên tắc.

Thuốc bôi chống ngứa không đặc hiệu

Dung dịch chứa 0,5% camphor, menthol và phenol giảm ngứa rất có hiệu quả trong những trường hợp ngứa nhẹ.

Pramoxin hydroclorid 1% loại dung dịch hoặc kem.

Pramoxin hydroclorid 1% với 5% menthol.

Hai thuốc này có tác dụng giảm ngứa nhờ tác dụng gầy tê bề mặt của nó.

Hydrocortison 1% hoặc 2,5% cũng có tác dụng giảm ngứa.

Thuốc chống ngứa toàn thân

Kháng Histamin:

Nói chung, thuốc chặn H1 là thuốc được chọn để chống ngứa do histamin gây nên, ví dụ như bệnh mày đay. Mặc dù tác dụng giảm ngứa của chúng là do tác dụng an thần chứ không phải do tác dụng kháng histamin. Các nhóm khác nhau có tác dụng an thần khác nhau, nhóm kháng histamin thế hệ hai có tác dụng an thần kém thì tác dụng giảm ngứa cũng yếu.       I

Theo cổ điển kháng histamin H1 được chia làm 6 nhóm:

Alkylamin (Chlorpheniramin và Dexchlorpheniramin) là nhóm dó tác dựng an thần kém nhất.

Ethanolamin (diphenhydramin)Ịà nhóm có tác dụng an thần mạnh.

Phenothiazin (promethazin) cũng là nhóm có tác dụng mạnh.

Piperazin (hydroxyzin).

Ethylenediamin (tripelennamin).

Ba nhóm cuối có tác dụng an thần kém hơn.

Ba thuốc kháng histamin ít gây ngủ là Loratadin, Terfenadin, và Astemizol. Một số thuốc chống trầm cảm như Doxepin cũng có tác dụng kháng, histamin và có lợi trong điều trị mày đay.

Thuốc tâm thần:

Một số thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm và một số thuốc tâm thần khác có tác dụng giảm ngứa rất tốt nhưng phải được các bác sĩ chuyên khoa theo dõi cẩn thận.

Corticosteroid toàn thân.

Kem chống nắng

Che chở da khỏi ảnh hưởng của các tia cực tím nên bắt đầu ngay sau khi được sinh ra. Sự khắc sâu các quan điểm kiến thức về tắm nắng là một mục tiêu quan trọng trong y tế cộng đồng, ở người có da trắng, nắng có thể gây bệnh dày sừng ánh nắng, bớt, ung thư tế bào gai, ung thư tế bào đáy và ung thư sắc tố. Phương pháp bảo vệ tốt nhất là che nắng, ngoài mặc quần áo còn cần tránh náng chiếu trực tiếp vào 5 giờ cao điểm trong ngày, siêng năng dùng kem chống nắng khi ra nắng là rất quan trọng. Các ước tính cho rằng những trẻ em có nước da trắng cần dùng kem chống nắng thường xuyên, sự xuất hiện ung thư da trong cuộc đời của chúng có thể sẽ được giảm khoảng 75%.

Có một số kem chống nắng có hiệu quả cao rất có giá trị. Người có nước da trắng nên dùng kem chống nắng có số yếu tố chống nắng cao (SPF: Sun Protective factor) ít nhất là 15 có thể tới 30 - 40. Đối với những người nhạy cảm với PABA (p - aminobenzoic acid) thì nên dùng các loại kem chống nắng không có chứa PABA như: Neutrogena SPF 15, Solbar SPF 15, TI - Screen SPF 15, Presun 29. Loại kem Solbar PF (không chứa PABA) có SPF là 50, rất thuận tiện. Kem chống nắng có SPF > 25 không những chống được UVA mà còn chống được UVB và rất có lợi trong việc giảm các rối loạn do ánh nắng gây ra. Nhiều loại mỹ phẩm như dầu che chở UV của Olay, có chứa chất chống nắng với SPF là 15 trong chất cơ bản, không gây nhờn, phù hợp để dùng ban ngày. Kem chống nắng đục nên chứa Titanium dioxid, vì oxid kẽm đơn thuần là chất có tác dụng chống nắng ít.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.