Hồng ban nút

2016-07-06 04:09 PM

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu để chẩn đoán

Các nốt đỏ gây đau không loét ở mặt trước của chân.

Tiến triển chậm qua vài tuần giống vết giập.

Một số trường hợp liên quan với nhiễm khuẩn và nhạy cảm với thụốc; chủ yếu phụ nữ bị nhiễm.

Nhận định chung

Hồng ban nút là một hội chứng phức tạp đặc trưng bởi các u đỏ, mềm, hầu hết thường xuất hiện trên bề mặt duỗi của chân. Nó thường kéo dài khoảng 6 tuần và có thể tái phát. Bệnh có thể do các nhiễm khuẩn khác nhau (liên cầu, bệnh nấm coccidioides tiên phát, các nhiễm nấm sâu khác) hoặc có thể do nhạy cảm với thuôc (penicillin, progestin). Nó có thể kèm theo bệnh bạch cầu, bệnh sarcoid, thấp khóp cấp và viêm loét ruột kết. Thường bị nhiễm các vi sinh vật không thông thường như Pasteurella (Yersinia) pseudotuberculosis và Yersinia enterocolitica. Hồng ban nút có thể do thai nghén hoặc uống thuốc tránh thai.

Dấu hiệu và triệu chứng

Các sưng tấy mềm và thường có sốt, khó chịu, đau khớp trước đó. Hầu hết chúng thường tập trung ở mặt trước của chân, vùng dưới đầu gối nhưng cũng có thế (hiếm) ở cánh tay, trên thân và mặt. Các thương tổn có đường kính 1- 10 cm, lúc đầu thường có màu hồng tới đỏ; khi suy thoái chúng có màu sắc giống như màu quan sát được ở một vết giập. Thỉnh thoảng các nốt trở nên bùng nhùng nhưng lại không mưng mủ.

Cận lâm sàng

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Chẩn đoán phân biệt

Hồng ban rắn được thấy ở mặt sau của chân và có loét. Viêm nút mạch máu thường thấy ở bắp chân và liên kết với viêm tĩnh mạch. Hồng ban đa dạng có phân bố toàn thân.

Viêm mô mỡ da luput biểu hiện các nốt mềm trên mông và thân mà khi lành tạo các sẹo lõm xuống. Ở giai đoạn sau, hồng ban nút phải được phân biệt với các vết thâm tím và vết giập đơn giản.

Điều trị

Liệu pháp chung

Đầu tiên phải xác định và điều trị nguyên nhân chính, ví dụ, nhiễm khuẩn toàn thân hay nhiễm độc ngoại sinh. Liệu pháp đầu tiên là dùng các chất chống viêm không phải steroid với liều bình thường. Dùng dung dịch kali iodin, 5 - 15 giọt ba lần một ngày có thể có tác dụng giảm tiến triển của bệnh trong rất nhiều trường hợp. Các tác dụng phụ của kali iodin bao gồm làm tiết nước bọt, làm sưng tuyến nước bọt và đau đầu. Nghỉ ngơi hoàn toàn trên giường nếu các tổn thương gây đau đớn. Liệu pháp toàn thân trực tiếp đối với bản thân các tổn thương có thể dùng liều pháp corticosteroi nếu không có chống chỉ định do các nhiễm khuẩn kèm theo; có thể dùng salicylat vài ngày trong giai đoạn đau cấp tính.

Điều trị tại chỗ

Thường thì không cần thiết. Có thể dùng gạc nóng hoặc lạnh.

Tiên lượng

Các tổn thương biến mất sau khoảng 6 tuần nhưng cũng có thể tái phát.

Bài viết cùng chuyên mục

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.