- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Nhọt và nhọt độc
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Sưng do viêm nang lông tạo áp xe gây đau đớn vô cùng.
Đôi khi có bệnh tiên phát từ trước, đặc biệt là bệnh đái tháo đường.
Tụ cầu Staphylococcus aureus có men làm đông là nguyên nhân gây bệnh.
Nhận định chung
Nhọt một sự nhiễm khuẩn áp xe ở toàn bộ nang lông và mô da lân cận. Vị trí thông thường nhất của nhọt là vùng lông dễ bị kích thích, ma sát, chèn ép, bị bít bởi các sản phẩm của Petroleum. Vì các tổn thương tự nhiễm nên chúng thường tăng lên. Các nghiên cứu kỹ lưỡng bất kỳ không tìm ra căn nguyên mặc dù đôi khi không còn nghi ngờ là bệnh nhân bị đái tháo đường.
Nhọt độc gồm một số nhọt phát triển liên kết nang lông và hợp lại thành một khối, nằm sâu, có các điểm dẫn lưu.
Dấu hiệu và triệu chứng
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón. Nó lớn dần trở nên bùng nhùng và sau đó mềm đi rồi tự vỡ sau một vài ngày cho tới 1- 2 tuần làm thoát ta mủ có nhân mô hoại tử. Đôi khi nhiễm khuẩn giảm đi trước khi xảy ra hoại tử. Bị nhiễm ở vùng mô mềm xung quanh móng (viêm quanh móng) thường do tụ cầu khi là cấp tính. Đây là một biến thể của nhọt. Các vi khuẩn khác cũng có thể là nguyên nhân bao gồm Pseudomonas và herpes simplex (chín mé herpes).
Cận lâm sàng
Có thể có tăng bạch cầu nhẹ, nhưng ít khi cần phải đếm bạch cầu. Mặc dù S. aureus hầu như luôn luôn là nguyên nhân, nhưng cần phải nuôi cấy mủ, đặc biệt với các bệnh nhân suy giảm miễn dịch, để loại bỏ nguyên nhân S. aureus kháng methicillin hay các vi khuẩn khác.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh phân biệt chẩn đoán thông thường nhất là một nang thể vùi biểu bì bị viêm bỗng nhiên trở nên đỏ, mềm và tăng nhiều về kích thước trong vòng một đến vài ngày: Lịch sử của một nang nhỏ trước đó ở cùng một vị trí, sự có mặt của lỗ nang có thể nhìn thấy, và sự đẩy ra của chất giống pho mát hơn là mủ có thể giúp cho chẩn đoán. Nhọt cũng có thể phân biệt với nhiễm nấm sâu như nhiễm nấm Sporotrichum (thường gặp ở những người làm vườn) và nhiễm nấm Blastomyces, với các nhiễm khuẩn khác như bệnh than, bệnh do tularemia (hiếm), và với nang trứng cá, viêm tuyến mồ hôi, bệnh tuyến hủy đầu, biểu hiện áp xe vô khuẩn mềm trong nách, háng, ngực. Sự có mặt của các sẹo cũ hay cộng với nuôi cấy âm tính gợi ý cho chẩn đoán này.
Biến chứng
Nghiêm trọng và đôi khi bệnh gây chết người như viêm tác tĩnh mạch xoang hang có thể là biến chứng của một chiếc nhọt ở phần giữa môi trên hay ở nếp gấp mũi môi. Áp xe quanh thận, viêm xương tủy và thậm chí viêm màng trong tim cũng có xảy ra do nhọt.
Điều trị
Liệu pháp đặc hiệu
Chỉ định các thuốc chống viêm toàn thân (được lựa chọn trên cơ sở nuôi cấy và kiểm tra độ nhạy nếu có thể). Thường thì cloxacillin natri 1g/ ngày với các liều chia nhỏ dùng trong 10 ngày đường uống có tác dụng tốt. Cephalexin là một thuốc thay thế có hiệu quả. Ciprofloxacin có hiệu quả chống các dòng tụ cầu kháng các loại kháng sinh khác. Có thể dùng erythromycin đối với các bệnh nhân dị ứng với penicillin trong cộng đồng có ít người có tụ cầu kháng erythromycin hoặc phân lập được loại nhạy cảm với erythromycin.
Nhọt tái phát có thể được điều trị hiệu quả bằng kết hợp dicloxacillin 250 - 500mg 4 làn một ngày trong 2 - 4 tuần, và rifampin 300mg 2 lần 1 ngày trong 5 ngày. Các thành viên của gia đình và các tiếp xúc gần gũi có thể cần đánh giá trạng thái mang tụ cầu và có lẽ cần điều trị đồng thời. Dùng mupirocin 2% bôi vào lỗ mũi ngoài, nách, và vùng hậu môn sinh dục 3 lần 1 ngày trong 5 - 7 ngày sẽ loại bỏ trạng thái mang tụ cầu. Tuy vậy với công thức hiện nay mupirocin có thể kích thích bên trong mũi.
Liệu pháp lại chỗ
Cố định và tránh lan rộng phần viêm. Dùng nhiệt ẩm để giúp vết thương rộng hơn "khoanh vùng". Phẫu thuật rạch vết thương và cắt bỏ phần hoại thư sau khi nhọt đã "chín". Không được rạch sâu. Bôi thuốc chống viêm và băng kín trong khi dẫn lưu. Không cần thiết phải rạch và dẫn lưu viêm quanh móng do tụ cầu cấp. Luồn một thìa kim loại phẳng hoặc một que gỗ cứng nhọn vào nếp móng tay chỗ tiếp giáp với móng sẽ làm thoát mủ từ tổn thương đã chín.
Nang biểu bì bị viêm tốt nhất là điều trị bằng tiêm triamcinolon acetonid (10 mg/ml) vào góc của tổn thương trong giai đoạn đầu, cố gắng không tiêm vào nang. Cùng lúc có thể phải dẫn lưu nếu vết thương quá bùng nhùng.
Tiên lượng
Các đợt tái phát có thể xẩy ra trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Nhọt độc nghiêm trọng hơn và nguy hiểm hơn nhọt thường.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Rôm ban nhiệt
Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.
Hồng ban nút
Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Ngứa: chẩn đoán và điều trị
Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.