Nhọt và nhọt độc

2016-07-07 11:09 AM

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Sưng do viêm nang lông tạo áp xe gây đau đớn vô cùng.

Đôi khi có bệnh tiên phát từ trước, đặc biệt là bệnh đái tháo đường.

Tụ cầu Staphylococcus aureus có men làm đông là nguyên nhân gây bệnh.

Nhận định chung

Nhọt một sự nhiễm khuẩn áp xe ở toàn bộ nang lông và mô da lân cận. Vị trí thông thường nhất của nhọt là vùng lông dễ bị kích thích, ma sát, chèn ép, bị bít bởi các sản phẩm của Petroleum. Vì các tổn thương tự nhiễm nên chúng thường tăng lên. Các nghiên cứu kỹ lưỡng bất kỳ không tìm ra căn nguyên mặc dù đôi khi không còn nghi ngờ là bệnh nhân bị đái tháo đường.

Nhọt độc gồm một số nhọt phát triển liên kết nang lông và hợp lại thành một khối, nằm sâu, có các điểm dẫn lưu.

Dấu hiệu và triệu chứng

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón. Nó lớn dần trở nên bùng nhùng và sau đó mềm đi rồi tự vỡ sau một vài ngày cho tới 1- 2 tuần làm thoát ta mủ có nhân mô hoại tử. Đôi khi nhiễm khuẩn giảm đi trước khi xảy ra hoại tử. Bị nhiễm ở vùng mô mềm xung quanh móng (viêm quanh móng) thường do tụ cầu khi là cấp tính. Đây là một biến thể của nhọt. Các vi khuẩn khác cũng có thể là nguyên nhân bao gồm Pseudomonas và herpes simplex (chín mé herpes).

Cận lâm sàng

Có thể có tăng bạch cầu nhẹ, nhưng ít khi cần phải đếm bạch cầu. Mặc dù S. aureus hầu như luôn luôn là nguyên nhân, nhưng cần phải nuôi cấy mủ, đặc biệt với các bệnh nhân suy giảm miễn dịch, để loại bỏ nguyên nhân S. aureus kháng methicillin hay các vi khuẩn khác.

Chẩn đoán phân biệt

Bệnh phân biệt chẩn đoán thông thường nhất là một nang thể vùi biểu bì bị viêm bỗng nhiên trở nên đỏ, mềm và tăng nhiều về kích thước trong vòng một đến vài ngày: Lịch sử của một nang nhỏ trước đó ở cùng một vị trí, sự có mặt của lỗ nang có thể nhìn thấy, và sự đẩy ra của chất giống pho mát hơn là mủ có thể giúp cho chẩn đoán. Nhọt cũng có thể phân biệt với nhiễm nấm sâu như nhiễm nấm Sporotrichum (thường gặp ở những người làm vườn) và nhiễm nấm Blastomyces, với các nhiễm khuẩn khác như bệnh than, bệnh do tularemia (hiếm), và với nang trứng cá, viêm tuyến mồ hôi, bệnh tuyến hủy đầu, biểu hiện áp xe vô khuẩn mềm trong nách, háng, ngực. Sự có mặt của các sẹo cũ hay cộng với nuôi cấy âm tính gợi ý cho chẩn đoán này.

Biến chứng

Nghiêm trọng và đôi khi bệnh gây chết người như viêm tác tĩnh mạch xoang hang có thể là biến chứng của một chiếc nhọt ở phần giữa môi trên hay ở nếp gấp mũi môi. Áp xe quanh thận, viêm xương tủy và thậm chí viêm màng trong tim cũng có xảy ra do nhọt.

Điều trị

Liệu pháp đặc hiệu

Chỉ định các thuốc chống viêm toàn thân (được lựa chọn trên cơ sở nuôi cấy và kiểm tra độ nhạy nếu có thể). Thường thì cloxacillin natri 1g/ ngày với các liều chia nhỏ dùng trong 10 ngày đường uống có tác dụng tốt. Cephalexin là một thuốc thay thế có hiệu quả. Ciprofloxacin có hiệu quả chống các dòng tụ cầu kháng các loại kháng sinh khác. Có thể dùng erythromycin đối với các bệnh nhân dị ứng với penicillin trong cộng đồng có ít người có tụ cầu kháng erythromycin hoặc phân lập được loại nhạy cảm với erythromycin.

Nhọt tái phát có thể được điều trị hiệu quả bằng kết hợp dicloxacillin 250 - 500mg 4 làn một ngày trong 2 - 4 tuần, và rifampin 300mg 2 lần 1 ngày trong 5 ngày. Các thành viên của gia đình và các tiếp xúc gần gũi có thể cần đánh giá trạng thái mang tụ cầu và có lẽ cần điều trị đồng thời. Dùng mupirocin 2% bôi vào lỗ mũi ngoài, nách, và vùng hậu môn sinh dục 3 lần 1 ngày trong 5 - 7 ngày sẽ loại bỏ trạng thái mang tụ cầu. Tuy vậy với công thức hiện nay mupirocin có thể kích thích bên trong mũi.

Liệu pháp lại chỗ

Cố định và tránh lan rộng phần viêm. Dùng nhiệt ẩm để giúp vết thương rộng hơn "khoanh vùng". Phẫu thuật rạch vết thương và cắt bỏ phần hoại thư sau khi nhọt đã "chín". Không được rạch sâu. Bôi thuốc chống viêm và băng kín trong khi dẫn lưu. Không cần thiết phải rạch và dẫn lưu viêm quanh móng do tụ cầu cấp. Luồn một thìa kim loại phẳng hoặc một que gỗ cứng nhọn vào nếp móng tay chỗ tiếp giáp với móng sẽ làm thoát mủ từ tổn thương đã chín.

Nang biểu bì bị viêm tốt nhất là điều trị bằng tiêm triamcinolon acetonid (10 mg/ml) vào góc của tổn thương trong giai đoạn đầu, cố gắng không tiêm vào nang. Cùng lúc có thể phải dẫn lưu nếu vết thương quá bùng nhùng.

Tiên lượng

Các đợt tái phát có thể xẩy ra trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Nhọt độc nghiêm trọng hơn và nguy hiểm hơn nhọt thường.

Bài viết cùng chuyên mục

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.