Nấm thân hoặc nấm hình vòng

2016-06-14 11:39 AM

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Các thương tổn hình tròn có bờ vảy tiến triển và trung tâm thương tổn sạch hoặc mảng vảy có bờ rõ.

Khu trú ở vùng da hở.

Xét nghiệm bằng kính hiển vi hoặc nuôi cấy xác định được chẩn đoán.

Đánh giá chung

Thương tổn thường ở vùng hở như mặt và cánh tay. Đôi khi có tiền sử tiếp xúc với mèo bị nhiễm bệnh, Tất cả các loại nấm da đều có thể gây bệnh, nhưng nấm trichophyton rubrum là loại nấm gây bệnh hay gặp nhất.

Triệu chứng và dấu hiệu

Có thể có ngứa. Theo cổ điển, thương tổn có hình nhẫn, đỏ, có bờ vảy tiến triển và trung tâm sạch, và đôi khi thẫm màu, khu trú ở vùng hở. Ngày nay, thương tổn thường không có hình nhẫn mà thương tổn là mảng vảy có kích thước từ 1 đến nhiều centimet.

Xét nghiệm

Cạo vảy ở bờ thương tổn, cho vào dung dịch KOH 10% và soi dưới kính hiển vi thấy có các sợi nấm. Chẩn đoán được xác định bằng nuôi cấy. Dụng cụ được dùng cho nuôi cấy ở môi trường Sabouraud là dùng que tăm bông trà mạnh lên thương tổn rồi xoay tròn que tăm bông khi cho bệnh phẩm vào môi trường, phương pháp này cũng chính xác như cạo thương tổn bằng dao mổ hoặc thìa nạo.

Chẩn đoán phân biệt

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert. Vảy nến có thương tổn điển hình ở khủyu tay, đầu gối, da đầu và móng. Giang mai giai đoạn hai thường đặc trưng bởi các thương tổn ở lòng bàn tay, bàn chân và niêm mạc. Hồng ban đa dạng ít khi có viền vảy ở xung quanh và thường khu trú ở đầu chi, và thường có kèm theo bệnh herpes. Nấm thân ít khi có nhiều thương tổn như trong vảy phấn hồng Gibert. u hạt hình nhẫn thì không có vảy.

Biến chứng

Nấm thân thường có biến chứng lan lên da đầu, vào tóc hoặc móng (trường hợp này thường chữa khó), viêm da mủ, và ban dạng nấm da.

Phòng bệnh

Tránh tiếp xúc với gia súc nhiễm bệnh và thay quần áo bẩn.

Điểu trị

Biện pháp tại chỗ

Bôi các thuốc sau có tác dụng chống nấm da tốt khác với tác dụng của chúng với nấm móng: Kem miconazol 2%, kem, nước rửa hoặc dung dịch Clotrimazol 1%, kem 2% ketoconazol, kem hoặc dịch ecùriazol 1%, kem sulconazol 1%, kem oxiconazol 1%, kem ciclopirox 1%, kem hoặc gel naftifìn 1% và kem terbinafin 1%. Miconazol và clotrimazol có giá trị trong OTC. Terbinafin là thuốc đáp ứng nhanh nhất nhưng đắt. Phải tiếp tục điều trị thêm 1- 2 tuần sau khi thương tổn đã sạch. Tolnaftat 1% dạng dung dịch hoặc kem là những thuốc củ thứ hai mà ngày nay ít dùng. Betamethason propionat với clotrimazol được các bác sĩ không chuyên khoa thường dùng quá liều. Nói chung dùng betainethason-clotrimazol, và dùng kéo dài, không đúng sẽ gây tác dụng phụ do steroid mạnh, đặc biệt ở các nếp gấp. Một số trường hợp nhiễm nấm mà lâm sàng không đáp ứng với loại thuốc kết hợp này đã được thông báo.

Điều trị toàn thân

Griseofulvin (dạng kết tinh nhỏ) có thể dùng cho trẻ em như trong nấm tóc và griseofulvin (dạng siêu nhỏ) 250 - 500mg dùng 2 lần/ngày được dùng cho người lớn. Điển hình, chỉ cần điều trị 2 - 4 tuần. Ketoconazol là loại thuốc được dùng cho những trường hợp nhiễm nấm da kháng thuốc mạnh, bắt đau với liều 200mg/ngày. Itraconazol với liều 100 - 200mg/ngày cũng có lợi, nhưng nó không được chấp thuận chi định dùng cho loại nấm thân này.

Tiên lượng

Bệnh nấm thân thường đáp ứng ngay với thuốc bôi trong vòng 4 tuần hoặc griseofulvin loại uống.

Bài viết cùng chuyên mục

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.