Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

2016-06-16 10:05 PM

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Mảng thương tổn đỏ, khu trú, không triệu chứng thường khu trú ở mặt, hình cánh bướm.

Trên thương tổn có vảy, dày sừng nang lông, teo da và giãn mạch.

Giải phẫu bệnh đặc hiệu.

Có thể có nhạy cảm với ánh sáng.

Đánh giá chung

Thể này của luput ban đỏ là một viêm dạng đĩa khu trú của da, thường ở những vùng tiếp xúc với ánh sáng. Nguyên nhân chưa biết.

Triệu chứng và dấu hiệu

Thường không có triệu chứng. Có một hoặc nhiều thương tổn, màu đỏ thẫm, ranh giới rõ, có kích thước 5 - 20 mm đường kính, khu trú chủ yếu ở mặt. Đầu, vành tai và niêm mạc cũng có thể bị. Thương tổn thường được phủ bởi lớp vảy dính, khô và có các nón sừng, có dày sừng, có teo da, và giãn mạch.

Xét nghiệm

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống. Rất hiếm bệnh nhân có nhạy cảm với ánh sáng và có hình ảnh lâm sàng rõ của một luput ban đỏ mà xét nghiệm ANA thì âm tính nhưng lại dương tính với kháng thể chống Ro/SSA. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp thấy có kháng thể kháng màng đáy nhưng có thể có dương tính giả ở những vùng da tiếp xúc với ầnh sáng.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán dựa vào hình ảnh lâm sàng kết hợp với sinh thiết thông thường ở hầu hết các trường hợp. Vảy da khô giống "đinh bấm" và có thể phân biệt với vảy của viêm da dầu và vảy của vảy nến. Những thương tổn cũ mà để lại sẹo (cổ điển ở vùng loa tai) hoặc những vùng có rụng tóc cũng sẽ phải phân biệt với luput ban đỏ. Những thương tổn đơn độc có thể giống ung thư tế bào đáy thể xơ hóa là thể rất hiếm gặp. Sinh thiết da sẽ giúp chẩn đoán. Luput ban đỏ dạng đĩa khác với luput lao bởi sự vắng mặt của u và loét. 10% bệnh nhân luput ban đỏ hệ thống có thương tổn dạng đĩa.

Biến chúng

Thương tổn có thể lan rộng, gây rối loạn sắc tố, rụng tóc không hồi phục và sẹo.

Điều trị

Biện pháp chung

Tránh ánh nắng đối với bệnh nhân nhạy cảm. Chú ý: Không được điều trị bằng bất cứ một loại tia nào. Tránh dùng các loại thuốc gây nhạy cảm với ánh sáng (thiazid, piroxicam, doxycyclin) nếu có thể.

Điều trị tại chỗ

Nên dùng thử các loại thuốc bôi như sau trước khi dùng thuốc toàn thần: kem corticosteroid mạnh bôi vào buổi tối rồi băng bịt ni lông, hoặc băng Cordran, hoặc halobetasol propionat hoặc clobetasol propionat dạng kem hoặc mỡ ngày bôi hai lần không cần băng bịt.

Thâm nhiễm tại chỗ

Triamcinolon acetonid 2,5- lOmg/ml, tiêm vào thương tổn 1 lần / tháng. Nên điều trị thử bằng cách này trước khi dùng thuốc toàn thân .

Điều trị toàn thân

Thuốc chõng rốt rét:

Chú ý: những loại thuốc này chỉ nên dùng khi chẩn đoán đã chắc chắn, vì chúng có thể kết hợp làm vượng bệnh vảy nến, đây có thể nằm trong chẩn đoán phân biệt. Và thuốc cũng có thể gây những biến đổi tràm trọng về mắt, cần kiểm tra mắt trước khi dùng thuốc và kiểm tra thường kỳ 3 tháng một lần trong thời gian điều trị. Việc dùng thuốc chống rốt rét cho trẻ em đang còn tranh cãi.

Hydroxychloroquin sulfat, 0,2 - 0,4g/ngày uống trong vài tuần, thuốc có thể có tác dụng và thường dùng khi dùng chloroquin. Thường dùng thử trong 3 tháng.

Chloroquin sulfat, 250mg/ngày có thể có hiệu quả trong một vài trường hợp khi hydroxychloroquin không có tác dụng.

Quinacrin (Atabrine), 100mg/ngày, là thuốc an toàn nhất trong nhóm thuốc chống rốt rét, vì chưa có thông báo về tai biến mắt. Thuốc làm cho da có màu vàng nên nó không được chấp nhận dùng ở một số bệnh nhân.

Dapson:

Dapson 50mg/ngày có thể có lợi. Nên kiểm tra giải phẫu bệnh trước khi điều trị.

Istretinoin:

Trong một nghiên cứu người ta cho isotretinoin 80mg/ngày, thấy có tác dụng làm cho thương tổn da và các xét nghiệm trở về bình thường ở các bệnh nhân luput ban đỏ mạn và luput ban đỏ bán cấp. Vì tác dụng gây quái thai nên không dùng thuốc cho phụ nữ đang ở độ tuổi sinh đẻ không áp dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả. Cần được sự ưng thuận của bệnh nhân, cũng như phải làm phản ứng phát hiện thai trước khi điều trị loại thuốc này.

Tiên lượng

Bệnh tồn tại lâu dài nhưng không nguy hiểm đối với cuộc sống của bệnh nhân trừ khi kết hợp với luput ban đỏ hệ thống, nhưng điều này ít xảy ra. Điều trị bằng thuốc chống sốt rét có tác dụng trong 60% trường hợp. Mặc dù sự rắc rối do bệnh chỉ là vấn đề hình thức, đặc biệt gây chú ý ở những bệnh nhân có nước da sẫm màu và có thương tổn lan rộng.

Sẹo do rụng tđc có thể phòng được hoặc làm giảm bằng cách theo dõi sát và điều trị tích cực.

Bài viết cùng chuyên mục

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.