Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

2016-06-07 02:53 PM

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Nổi mụn khu trú kèm theo ngứa.

Các thương tổn giống đinh nhọt có chứa các con chân đốt còn sống.

Các mảng ban đỏ mềm và di chuyển (ấu trùng di trú).

Mày đay toàn thân hoặc hồng ban đa dạng ở một số bệnh nhân.

Nhận định chung

Một số động vật chân đốt (ví dụ hầu hết các muỗi gây hại và ruồi đốt) đều dễ dàng bị phát hiện khi chúng đốt. Rất nhiều bọn khác thì không như vậy, ví dụ như chúng quá nhỏ, vì không có phản ứng tức thời, hoặc là chúng đốt khi người ta đang ngủ. Phản ứng có thể xuất hiện sáu nhiều giờ, rất nhiều trong số chúng là dị ứng. Đa số bệnh nhân có xu hướng gặp bác sĩ điều trị khi tổn thướng đã nhiều và ngứa nặng. Rất nhiều người chỉ có phản ứng dữ dội với lần tiếp xúc đầu tiên với một con chân đốt do đó với các tổn thương ngứa biểu hiện trên đường di chuyển tới khu mới. Chấy rận trên cơ thể, bọ chét, rệp, và các loại muỗi địa phương đều cần phải xem xét. Người ta thường nhận định một cách sai lầm rằng nhện là nguyên nhân chính của các vết cắn, nhện rất ít khi tấn công người dù là nhện nâu (Loxosceles laeta, Loxosceles reclusa) có thể gây các phản ứng hoại tử nghiêm trọng và chết do tan huyết, và nhện quả phụ đen (Latrodectus mactans) có thể gây ra các triệu chứng toàn thân nghiêm trọng và chết. Ngoài các vết cắn của chân đốt các tổn thương thông thường nhất là do nọc (côn trùng thuộc bộ cánh màng Hymenoptera, ong bắp cày, ong, kiến, bọ cạp) hoặc do cắn (động vật nhiều chân), các tổn thướng giống đinh nhọt do ruồi, ấu trùng của côn trùng hai cánh hoặc bọ chét cát trong da và sự phát ban thẳng dần do ấu trùng di chuyển.

Lâm sàng

Có thể khó chẩn đoán khi bệnh nhân không để ý lần bị tấn công đầu tiên mà chỉ để ý khi có phản ứng muộn. Các vết cắn đặc trưng thường theo nhóm và có xu hướng nằm ở các phần không che đậy của cơ thể (ví dụ ruồi nhuế, muỗi mắt) hoặc ở quanh eo lưng hay ở phần uốn của cơ thể (ví dụ các con bét ve nhỏ hoặc côn trùng trong chăn gốì hoặc trong quần áo). Phản ứng thường xuất hiện muộn sau 1 - 24 tiếng hoặc lâu hơn. Hầu như luôn luôn có ngứa và có lẽ là ngứa không thể chịu nổi một khi bệnh nhân bắt đầu gãi. Nhiễm khuẩn thứ phát có thể xuất hiện do gãi. Thường là chứng mày đay nốt phỏng. Các mụn sẩn có thể trở thành bọng nước. Để tạo điều kiện cho chẩn đoán nên tìm hiểu khả năng tiếp xúc với côn trùng chân đốt bằng hỏi kỹ về nghề nghiệp và các hoạt động gần nhất của bệnh nhân.

Sau đây là các côn trùng chân đốt chính:

Rệp: Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp. Người ta cho rằng Cimex lectularius (rệp) có thể có vai trò trong việc truyền viêm gan B. Một loại rệp cùng họ (sống nhọn) được thông báo có xu hướng tăng cường đốt người.

Bọ chét: Bọ chét là các ngoại ký sinh trùng hút máu, sống trên chó, mèo, người và các loài khác nữa. Nước bọt của nó gây ra mày đay mụn sẩn đối với những người nhạy cảm. Ctenocephalides felis và Ctenocephalides canis là các loại thông thường nhất tìm thấy ở mèo và chó, và cả hai loài này đều tấn công người. Bọ chét ở người, Pulex irritans, ít khi được các bác sĩ thú y công nhận là gây bệnh ở động vật nuôi.

Để phá vỡ chu trình sống của bọ chét cần phải xử lý nhà ở, vật nuôi và môi trường bên ngoài dùng các chất diệt côn trùng nhanh, các chất diệt côn trùng còn lại và một chất điều hoà sinh trưởng. Chim và cá đặc biệt nhạy cảm và phải bảo vệ chúng khi khử trùng.

Con bét: Thường bắt được khi chạm vào các cây mọc thấp. Âu trùng của bét có thể tấn công rất nhiều người, ở châu Phi và Ấn Độ, chúng bị nhầm lẫn với Trombiculidae (chigger). Chứng liệt lên đôi khi có thể truy ra nguyên nhân từ vết cắn của con bét và lấy đi con bét có thể làm mất triệu chứng. Con bét có thể truyền bệnh sốt richettsia vùng núi Rocky, bệnh Lyme, sốt hồi quy.

Con chigger hay rệp đỏ: Là ấu trùng của con bét Trombiculid. Một vài loài hạn chế ở một số nước đặc biệt và thường giới hạn trong những môi trường sống địa phương (ví dụ mảnh quả mọng, bờ rừng, bãi cỏ, đồi cây, bụi nhỏ ở ao, trang trại gia cầm), chúng tấn công người, thường ở xung quanh thắt lưng, trên cá chân, gây ra ngứa tăng dần tới sẩn đỏ nhiều giờ. Đôi khi có thể trông thấy rệp đỏ ở tâm của nốt sần chưa bị gãi. Rệp đỏ là nguyên nhân phổ biến nhất gây các tổn thương do động vật chân đốt.

Bét chim: Lớn hơn rệp đỏ, bét chim nhiễm vào chuồng bồ câu hay tổ bồ câu dưới mái hiên. Con bét tăng nhanh số lượng ở bất kỳ chỗ nào trên cơ thể, mặc dù những người nuôi gia cầm thường bị tấn công ở bàn tay và cẳng tay. Máy điều hoà nhiệt độ có thể hút phải bét chim và làm nhiễm vào các cư dân sống trong phòng. Bét ở động vật gậm nhấm từ chuột có thể gây ra các tác dụng tương tự. Chẩn đoán bét chim, bét gậm nhấm hoặc bét thảm có thể bị bỏ qua và bệnh nhân lại được điều trị bệnh khác.

Con bét ở các vật lưu kho: Các con này có màu trắng và hầu như không nhìn thấy được và chúng nhiễm vào các vật như cùi dừa khô, vỏ quả vanilla, mía, rơm, hạt bông, ngũ cốc. Những người làm việc với những vật này có thể bị tấn công, đặc biệt ở tay và cẳng tay và đôi khi ở chân. Chăn gốì bị nhiễm đôi khi có thể gây ra viêm da toàn thân.

Sâu buớm có lông gây mày đay: Các sợi lông bị thổi đi từ kén hoặc từ các con bướm gây ra các đợt bùng nổ tái phát nghiêm trọng và thường là theo mùa như ở một số bang phía nam của nước Mỹ.

Bệnh da do bọ chét đào hang: Được biết là con Tunga penetrans gây ra và tìm thấy ở châu Phi, Tây Ân và Nam Mỹ. Con cái đào hang dưới da, hút máu, làm sưng lên tới 0,5cm rồi sau đó đẻ trứng. Nó có thể dẫn đến loét, viêm mạch bạch huyết, hoại thư, nhiễm khuẩn máu, trong một số trường họp nguy hiểm gây tử vong. Phun thuốc ethyl chlorid sẽ giết chết côn trùng và có thể khử côn trùng bằng thuốc diệt côn trùng lên đất.

Chẩn đoán phân biệt

Động vật chân đốt cần phải được xem xét khi chẩn đoán phân biệt các tổn thương ở da có bất kỳ chứng nào như trên.

Phòng tránh

Tốt nhất là tránh các vùng bị nhiễm, giữ vệ sinh cá nhân, định kỳ khử trùng quần áo, chăn, gối, ga giường và đồ gỗ. Chấy rận, rệp, ve, bét đều có thể bị tiêu diệt bằng bôi lindan (Gammexane, Kwell, Scabene) vào đầu và quần áo. (Không cần phải vứt bỏ quần áo). Benzyl benzoat và dimethylphthalat là các thuốc diệt ve bét rất hiệu quả; quần áo phải được thấm, phun hoặc nhúng trong nhũ tương xà phòng.

Điểu trị

Cần phải lấy ra các động vật chân đốt còn sống một cách cẩn thận bằng nhíp sau khi dùng rượu và bảo quản rượu để định loại. Ở vùng có dịch bệnh sốt do richettsia vùng núi Rocky đặc hữu, không nên bắt bét bằng tay vì có thể bị nhiễm bệnh. Kem hoặc sữa corticosteroid rất hữu ích. Có thể dùng kem hay sữa crotamiton; đó là một chất diệt bét cũng như là chất chống ngứa. Sữa calamin hoặc quần áo ẩm mát luôn luôn thích hợp. Có thể dùng kem, sữa hoặc bột kháng sinh nếu nghi ngờ có nhiễm khuẩn thứ phát.

Các tổn thương khu trú kéo dài có thể điều trị bằng corticosteroid dùng trong tổn thương. Kem có chứa chất gây teo cục bộ không có hiệu quả lắm và có thể gây nhạy cảm. Nọc của rất nhiều động vật chân đốt có thể làm giảm độc bằng bột papain trộn với nước, hoặc nhôm clorua hexahydrat (Xerac AC).

Nước chiết từ túi nọc của ong, côn trùng thuộc bộ cánh màng Hymenoptera, ong bắp cày hiện nay đã có thể dùng cho liệu pháp miễn dịch đối với các bệnh nhân quắ mẫn những chúng rất đắt. Tuy nhiên cần phải điều trị vì hàng năm ở Mỹ có tới 50 - 100 người chết vì những bệnh này. Xấp xỉ 5% số bệnh nhân không có phản ứng.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.