Bệnh nấm candida da và niêm mạc

2016-06-25 09:32 AM

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Ngứa dữ dội các vùng âm hộ, hậu môn, hoặc các vùng kẽ.

Vùng thương tổn đỏ như thịt bò, trợt ướt, có hoặc không có các thương tổn xung quanh dạng mụn nước và mụn mủ.

Mảng bự màu trắng giống như sữa đông ở niêm mạc miệng và niêm mạc âm đạo.

Tìm thấy nấm ở vảy thương tổn hoặc từ các mảng trắng.

Đánh giá chung

Nấm candida ở da và niêm mạc là một loại nhiễm nấm nông ở bất kỳ vùng da hay niêm mạc nào của cơ thể. Bệnh đặc biệt hay xảy ra ở những người đái tháo đường, trong thờỉ kỳ mang thai, và ở những người béo bệu là những người tiết mồ hôi một cách tự do. Thuốc kháng sinh và các chất tránh thai có tác động đóng góp vào quá trình gây bệnh nấm. Nhiễm nấm candida ở niêm mạc miệng có thể là dấu hiệu đầu tiên của nhiễm HIV. Nhiếm candida thực quản có thể được xác định bằng phương pháp nội soi trên nhiều bệnh nhân AIDS có nhiễm candida ở miệng.

Dấu hiệu và triệu chứng

Ngứa thường dữ dội, đôi khi có cảm giác rát, đặc biệt là ở vùng quanh âm hộ và quanh hậu môn. Thương tổn là những vùng da màu đỏ như thịt bò và trợt ướt, ở những kẽ của cơ thể như vùng bẹn, vùng kẽ mông, nếp làn vú, ở mép và rốn. Xung quanh vùng trợt ướt có viền vảy mỏng, và lân cận có thể có các mụn nước, mụn mủ. Các mảng bự màu trắng như sữa đông có thể có ở trên bề mặt của thương tổn (đặc biệt ở niêm mạc miệng và âm đạo). Các kẽ ngón tay và vùng quanh móng cũng có thể bị trợt ra.

Cận lâm sàng

Có thể có thấy từng đám chồi cùng với các sợi nấm ngắn dưới kính hiển vi khi vảy thương tổn hoặc bự trắng được ngâm trong KOH 10%. Nấm có thể được phân lập trong môi trường Sabouraud. Nên chỉ định làm xét nghiệm đường huyết khi cần thiết.

Chấn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum vì có thương tổn ở vùng kẽ và biểu hiện giống như nhiễm nấm candida và niêm mạc.

Biến chứng

Nấm candida có thể xâm nhập vào toàn thân qua máu ở những người suy giảm miễn dịch và những bệnh nhân đang điều trị bằng kháng sinh phổ rộng và dung dịch glucose ưu trương để bồi bổ sức khoẻ. Có thể có hoặc không có biểu hiện lâm sàng của nhiễm nấm candida ở da và niêm mạc.

Điều trị

 

Liệu pháp chung

Những vùng bị nhiễm nấm cần phải giữ cho khô và để thông thoáng nếu có thể. Nếu có thể, nên cắt bỏ kháng sinh toàn thân hoặc cách khác là cho bệnh nhân uống đồng thời với nystatin 1,5 triệu đơn vị x 3 lần/ngày. fluconazol 50mg/ngày hoặc liều duy nhất 150mg cũng rất có hiệu quả và là phương pháp điều trị được chọn để điều trị nhiễm nấm candida da và viêm mạc. Ketoconazol 200mg/ngày theo đường uống có tác dụng trừ tiệt thương tổn mà lại có rất ít tác dụng phụ trừ khi gan bệnh nhân bị tổn thương. Phải theo dõi chức năng gan và theo dõi tái phát sau khi ngừng thuốc.

 

Liệu pháp tại chỗ

Da và móng: Bôi kem 1% ciclopirox, kem nystatin 1000 đơn vị/gam, hoặc miconazol, econazol, ketoconazol hoặc clotrimazol dạng kem hay dung dịch bôi 4 lần/ngày. Cũng có thể thay đổi bằng thuốc tím gentian 1% hoặc thuốc màu carbofuchsin (thuốc màu Castellani) 1- 2 lần/tuần, những thuốc này thường gây bẩn.

Niêm mạc âm hộ và hậu môn: Đối với nấm candida âm đạo có thể dùng kem miconazol bôi vào âm đạo vào lúc đi ngủ trong vòng 7 ngày, hay viên đạn clotrimazol đặt mỗi tỗí 1 viên vào âm đạo trong 7 ngày, kem terconazol hoặc viên đạn dùng cho âm đạo, hoặc nystatin 100.000 đơn vị/viên, đặt âm đạo 2 viên/ngày trong 7 ngay. Các thuốc bôi không có hiệu quả khi điều trị nấm candida âm đạo tái phát và những trường hợp khó chữa này cần phải điều trị kìm hãm lầu dài. Giá trị của fluconazol đã được phụ thêm vào cho ý niệm điều trị mới. Liều fluconazol duy nhất 150mg có tác dụng như ketoconazol 200mg, ngày 2 lần trong 5 ngày, nhưng phải quan tâm đến khả năng kháng thuốc khi dùng phác đồ này và được thay thế bằng liều 100mg/ngày trong 5 - 10 ngày.

Tiên lượng

Bệnh nấm candida da có thể rất khó chữa và bệnh thường kéo dài, đặc biệt ở trẻ nhỏ, vì có sự mất cân bằng tạo u hạt.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.