- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Ngứa dữ dội các vùng âm hộ, hậu môn, hoặc các vùng kẽ.
Vùng thương tổn đỏ như thịt bò, trợt ướt, có hoặc không có các thương tổn xung quanh dạng mụn nước và mụn mủ.
Mảng bự màu trắng giống như sữa đông ở niêm mạc miệng và niêm mạc âm đạo.
Tìm thấy nấm ở vảy thương tổn hoặc từ các mảng trắng.
Đánh giá chung
Nấm candida ở da và niêm mạc là một loại nhiễm nấm nông ở bất kỳ vùng da hay niêm mạc nào của cơ thể. Bệnh đặc biệt hay xảy ra ở những người đái tháo đường, trong thờỉ kỳ mang thai, và ở những người béo bệu là những người tiết mồ hôi một cách tự do. Thuốc kháng sinh và các chất tránh thai có tác động đóng góp vào quá trình gây bệnh nấm. Nhiễm nấm candida ở niêm mạc miệng có thể là dấu hiệu đầu tiên của nhiễm HIV. Nhiếm candida thực quản có thể được xác định bằng phương pháp nội soi trên nhiều bệnh nhân AIDS có nhiễm candida ở miệng.
Dấu hiệu và triệu chứng
Ngứa thường dữ dội, đôi khi có cảm giác rát, đặc biệt là ở vùng quanh âm hộ và quanh hậu môn. Thương tổn là những vùng da màu đỏ như thịt bò và trợt ướt, ở những kẽ của cơ thể như vùng bẹn, vùng kẽ mông, nếp làn vú, ở mép và rốn. Xung quanh vùng trợt ướt có viền vảy mỏng, và lân cận có thể có các mụn nước, mụn mủ. Các mảng bự màu trắng như sữa đông có thể có ở trên bề mặt của thương tổn (đặc biệt ở niêm mạc miệng và âm đạo). Các kẽ ngón tay và vùng quanh móng cũng có thể bị trợt ra.
Cận lâm sàng
Có thể có thấy từng đám chồi cùng với các sợi nấm ngắn dưới kính hiển vi khi vảy thương tổn hoặc bự trắng được ngâm trong KOH 10%. Nấm có thể được phân lập trong môi trường Sabouraud. Nên chỉ định làm xét nghiệm đường huyết khi cần thiết.
Chấn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum vì có thương tổn ở vùng kẽ và biểu hiện giống như nhiễm nấm candida và niêm mạc.
Biến chứng
Nấm candida có thể xâm nhập vào toàn thân qua máu ở những người suy giảm miễn dịch và những bệnh nhân đang điều trị bằng kháng sinh phổ rộng và dung dịch glucose ưu trương để bồi bổ sức khoẻ. Có thể có hoặc không có biểu hiện lâm sàng của nhiễm nấm candida ở da và niêm mạc.
Điều trị
Liệu pháp chung
Những vùng bị nhiễm nấm cần phải giữ cho khô và để thông thoáng nếu có thể. Nếu có thể, nên cắt bỏ kháng sinh toàn thân hoặc cách khác là cho bệnh nhân uống đồng thời với nystatin 1,5 triệu đơn vị x 3 lần/ngày. fluconazol 50mg/ngày hoặc liều duy nhất 150mg cũng rất có hiệu quả và là phương pháp điều trị được chọn để điều trị nhiễm nấm candida da và viêm mạc. Ketoconazol 200mg/ngày theo đường uống có tác dụng trừ tiệt thương tổn mà lại có rất ít tác dụng phụ trừ khi gan bệnh nhân bị tổn thương. Phải theo dõi chức năng gan và theo dõi tái phát sau khi ngừng thuốc.
Liệu pháp tại chỗ
Da và móng: Bôi kem 1% ciclopirox, kem nystatin 1000 đơn vị/gam, hoặc miconazol, econazol, ketoconazol hoặc clotrimazol dạng kem hay dung dịch bôi 4 lần/ngày. Cũng có thể thay đổi bằng thuốc tím gentian 1% hoặc thuốc màu carbofuchsin (thuốc màu Castellani) 1- 2 lần/tuần, những thuốc này thường gây bẩn.
Niêm mạc âm hộ và hậu môn: Đối với nấm candida âm đạo có thể dùng kem miconazol bôi vào âm đạo vào lúc đi ngủ trong vòng 7 ngày, hay viên đạn clotrimazol đặt mỗi tỗí 1 viên vào âm đạo trong 7 ngày, kem terconazol hoặc viên đạn dùng cho âm đạo, hoặc nystatin 100.000 đơn vị/viên, đặt âm đạo 2 viên/ngày trong 7 ngay. Các thuốc bôi không có hiệu quả khi điều trị nấm candida âm đạo tái phát và những trường hợp khó chữa này cần phải điều trị kìm hãm lầu dài. Giá trị của fluconazol đã được phụ thêm vào cho ý niệm điều trị mới. Liều fluconazol duy nhất 150mg có tác dụng như ketoconazol 200mg, ngày 2 lần trong 5 ngày, nhưng phải quan tâm đến khả năng kháng thuốc khi dùng phác đồ này và được thay thế bằng liều 100mg/ngày trong 5 - 10 ngày.
Tiên lượng
Bệnh nấm candida da có thể rất khó chữa và bệnh thường kéo dài, đặc biệt ở trẻ nhỏ, vì có sự mất cân bằng tạo u hạt.
Bài viết cùng chuyên mục
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.
Chai chân: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục
Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
