- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Vảy phấn hồng Gibert
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Dát màu nâu vàng, hình ôvan, có vảy, nằm dọc theo các đường tự nhiên của thân mình.
Dát mẹ có trước 1- 2 tuần
Thỉnh thoảng có ngứa
Đánh giá chung
Đây là một bệnh viêm nhẹ, cấp tính với 50% gặp ở nữ. Hay gặp ở thanh niên, bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, mùa thu. Nhiều người nội trợ cùng bị bệnh một lúc đã được thông báo, và tái phát có thể kéo dài hàng năm. Nguyên nhân chưa biết, nhưng người ta cho rằng nguyên nhân gây bệnh có thể dp picornavirus. Tỉ lệ lây lan ở những cặp vợ chồng là < 2%, vì vậy bất kể là nguyên nhân nào thì nó cũng không phải là bệnh lây lan nhiều.
Lâm sàng
Đôi khi có ngứa dữ dội. Chẩn đoán được xác định khi tìm thấy một hoặc nhiều thương tổn cổ điển. Thương tổn lầ các dát màu nâu, hình ôvan, có đường kính 4 - 5mm. Da ở trung tâm thương tổn nhăn giống như “giấy cuộn thuốc lá” hoặc có viền vảy, một ít vảy dính ở phần chu vi của thương tổn, và còn vùng trung tâm thì không có vảy. Thương tổn sắp xếp theo các đường tự nhiên của thân mình (vì vậy còn được gọi là hình ảnh cây thông nô-el), thương tổn thường khu trú ở gốc chi. Các thể khác mà thương tổn có ở các nếp gấp như bẹn, nách, thì gọi là thể đảo ngược của vảy phấn hồng Gibert, hoặc thể sẩn, đặc biệt gặp ở những người da đen. Thương tổn xuất hiện đầu tiên gọi là “mảng khởi phát”, là thương tổn có kích thước lớn hơn các thương tổn có sau, và xuất hiện truức 1 - 2 tuần. Bệnh kéo dài 8 tuần.
Chẩn đoán phân biệt
Nếu không có các thương tổn điển hình, nếu các dát không ngứa, và đặc biệt có thương tổn ở lòng bàn tay, bàn chân hoặc ở niêm mạc phải nghĩ tới bệnh giang mai giai đoạn hai, nên làm xét nghiệm huyết thanh để chẩn đoán xác định. Đối với những người không chuyên khoa, làm xét nghiệm RPR ở tất cả bệnh nhân là một chỉ định không vô lý. Bệnh nấm biểu hiện ở thân mình là những dát đỏ có vảy nhưng số lượng thương tổn ít hơn nhiều so với vảy phấn hồng Gibert. Soi tươi tìm nấm sẽ nhanh chóng cho chẩn đoán đúng. Đôi khi viêm da đầu có thương tổn ở thân thường biểu hiện là những mảng thương tổn lớn ở vùng xương ức, xương mu và nách. Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Điều trị
Thường không cần phải điều trị trừ trẻ em ở châu Á, Mỹ La Tinh và châu Phi, ở họ thương tổn thường trở nên thẫm màu. Phương pháp điều trị hiệu quả nhất là dùng UVB hàng ngày trong 1 tuần, hoặc prednison dùng như trong điều trị viêm da tiếp xúc. Thuốc bôi steroid nồng độ trung bình (triamcinolon 0,1%) có thể dùng khi ngứa làm bệnh nhân khó chịu. Các thuốc chống ngứa không đặc hiệu (pramoxin, Sarna) có thể dùng nhưng thường ít có giá trị. Kháng histamin cũng có thể dùng cho bệnh nhân nhưng thường gây ngủ.
Tiên lượng
Vảy phân hồng Gibert là một bệnh cấp tính tự khỏi sau 6 tuần.
Bài viết cùng chuyên mục
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Rôm ban nhiệt
Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
