- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Ngứa toàn thân, ngứa nặng về đêm.
Các mụn nước hay mụn mủ ngứa “lan” rộng đặc biệt ở cạnh của ngón tay và quanh lòng bàn tay.
Dưới kính hiển vi có thể nhìn thấy các con ghẻ, nhiều trứng, phân chấm nâu.
Các mụn nước hay các nốt trên thân và quy đầu dương vật là đặc trưng của bệnh.
Nhận định chung
Ghẻ là một bệnh viêm da thông thường gây ra do nhiễm Sarcoptes scabiei. Toàn bộ họ này đều có thể gây bệnh. Thường thì bệnh không nhiễm ở phần đầu và cổ (dù vậy trẻ em có thể bị ở cả các vùng này). Người ta có thể nhìn thấy cái ghẻ bằng mắt thường dưới dạng những chấm trắng. Bệnh ghẻ bị lây do ngủ chung, dùng chung chăn gối với người bị ghẻ hoặc do các tiếp xúc gần gũi khác.
Dấu hiệu và triệu chứng
Hầu như bệnh chỉ gây ngứa vào ban đêm. Các tổn thương gồm các vết trầy da với các mụn nước, các mụn mủ ngứa và ăn rộng trên các cạnh của ngón tay và quanh lòng bàn tay, cổ tay, khủyu tay và ở quanh nách. Sự ăn rộng xuất hiện như những vết ngắn không đều, có lẽ chỉ dài 2 - 3mm và rộng bằng đường kính sợi tóc. Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Cận lâm sàng
Chẩn đoán bệnh phải được khẳng định bằng các dẫn chứng hình ảnh hiển vi thấy cái ghẻ, trứng, hoặc phân của nó trong mẫu xét nghiệm trong glycerin, dầu muối khoáng, hoặc dầu ngâm. Thành công của các bước tiến hành này phụ thuộc vào việc chọn các tổn thương tốt nhất không bị tróc da từ kẽ ngón, cổ tay, khủyu tay, thắt lưng V.V.. Cho một chút dầu ngâm lên chỗ tổn thương và dùng lưõi dao số 15 để cắt thương tổn cho tới khi phẳng. Việc cắt bỏ này có thể để lại các vết máu nhỏ. Cũng có thể xác nhận chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp bằng xét nghiệm bôi mực. Bôi mực vào vết thương rồi cạo sinh thiết một lớp rất mỏng ở trên bề mặt bằng dao số 15 không gây đau và không gây chảy máu. Có thể nhìn thấy cái ghẻ, trứng và phân dưới kính hiển vi.
Chẩn đoán phân biệt
Cần phải phân biệt bệnh ghẻ với các dạng chấy rận khác và các dạng ngứa do các nguyên nhân khác.
Điều trị và tiên lượng
Cần phải giặt sạch quần áo và chăn gối. Nếu bệnh không bị phức tạp thêm do viêm da mủ thứ phát nghiêm trọng, điều trị bằng khử trùng sơ đẳng. Nếu có biểu hiện viêm da mủ thứ phát, cần phải điều trị toàn thân và bôi kháng sinh. Nếu không điều trị cho tất cả mọi người bị nhiễm bệnh trong một gia đình hoặc trong một nhóm thì rất có thể sẽ bị tái nhiễm. Các trường họp có vẻ “kháng” với lindan hoặc với crotamiton không hề ít gặp nhưng kháng kem permethrin 5% thì rất hiếm gặp.
Đối với người lớn, cách điều trị thông thường là khử trùng bằng lindan (gamma benzen hexachlorid) 1% trong kem hoặc dung dịch, nên bôi tử cổ trở xuống và để qua đêm. FDA đã cảnh báo về khả năng ảnh hưởng thần kinh và đối với việc dùng thuốc ở trẻ em và phụ nữ cũng như không nên lạm dụng thuốc. Có thể dùng cách này trước khi kiểm soát được sự nhiễm bệnh thứ phát.
Kem bôi permethrin 5% có hiệu quả rất cao và an toàn trong điều trị bệnh ghẻ. Chỉ dùng một lần. Thuốc có thể dùng cho trẻ em từ 2 tháng đến 2 tuổi và được lựa chọn chữa trị cho trẻ em. Cũng có thể dùng kem hoặc nước rửa crotamiton theo như cách dùng lindan nhưng dùng trong 5 đêm. Loại này ít có hiệu quả hơn nhiều. Các bệnh nhân có thai chỉ được điều trị nếu họ đã có chẩn đoán chắc chắn bệnh ghẻ và trong trường hợp này người ta dùng kem permethrin 5%.
Thuốc loại cũ có chứa 5% hoặc 6% sunfur trong petrolatum có thể vẫn sử dụng được cho các bệnh nhân có thai dùng vào buổi đêm và bôi từ cổ trở xuống, dùng trong 3 đêm nhưng phải chuẩn bị điều trị viêm da kích thích. Benzyl benzoat có thể được pha trộn thành kem hoặc nước bôi nồng độ từ 20% tới 35% và dùng bôi toàn thân (từ cổ trở xuống) qua đêm và điều trị hai lần một tuần riêng rẽ. Công thức NF XIV là 275 ml benzyl benzoat (có chứa 5g triethanolamin và 20g acid oleic) trong nước cho đủ thể tích 1000ml. Công thức này không gây mất thẩm mỹ, sạch sẽ và không quá kích thích. Bệnh nhân sẽ tiếp tục bị ngứa trong vài tuần sau khi điều trị. Dùng kem triamcinolon 0,1% sẽ giải quyết được chứng viêm da.
Các mụn nước ngứa kéo dài sau khi ghẻ có thể được điều trị bằng steroid tác dụng trung bình cho tới mạnh hoặc bằng triamcinolon acetonid bôi tại chỗ tổn thương (2,5 - 5mg/ml).
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Hồng ban nút
Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
