Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

2016-07-05 10:59 AM

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Ngứa toàn thân, ngứa nặng về đêm.

Các mụn nước hay mụn mủ ngứa “lan” rộng đặc biệt ở cạnh của ngón tay và quanh lòng bàn tay.

Dưới kính hiển vi có thể nhìn thấy các con ghẻ, nhiều trứng, phân chấm nâu.

Các mụn nước hay các nốt trên thân và quy đầu dương vật là đặc trưng của bệnh.

Nhận định chung

Ghẻ là một bệnh viêm da thông thường gây ra do nhiễm Sarcoptes scabiei. Toàn bộ họ này đều có thể gây bệnh. Thường thì bệnh không nhiễm ở phần đầu và cổ (dù vậy trẻ em có thể bị ở cả các vùng này). Người ta có thể nhìn thấy cái ghẻ bằng mắt thường dưới dạng những chấm trắng. Bệnh ghẻ bị lây do ngủ chung, dùng chung chăn gối với người bị ghẻ hoặc do các tiếp xúc gần gũi khác.

Dấu hiệu và triệu chứng

Hầu như bệnh chỉ gây ngứa vào ban đêm. Các tổn thương gồm các vết trầy da với các mụn nước, các mụn mủ ngứa và ăn rộng trên các cạnh của ngón tay và quanh lòng bàn tay, cổ tay, khủyu tay và ở quanh nách. Sự ăn rộng xuất hiện như những vết ngắn không đều, có lẽ chỉ dài 2 - 3mm và rộng bằng đường kính sợi tóc. Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Cận lâm sàng

Chẩn đoán bệnh phải được khẳng định bằng các dẫn chứng hình ảnh hiển vi thấy cái ghẻ, trứng, hoặc phân của nó trong mẫu xét nghiệm trong glycerin, dầu muối khoáng, hoặc dầu ngâm. Thành công của các bước tiến hành này phụ thuộc vào việc chọn các tổn thương tốt nhất không bị tróc da từ kẽ ngón, cổ tay, khủyu tay, thắt lưng V.V.. Cho một chút dầu ngâm lên chỗ tổn thương và dùng lưõi dao số 15 để cắt thương tổn cho tới khi phẳng. Việc cắt bỏ này có thể để lại các vết máu nhỏ. Cũng có thể xác nhận chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp bằng xét nghiệm bôi mực. Bôi mực vào vết thương rồi cạo sinh thiết một lớp rất mỏng ở trên bề mặt bằng dao số 15 không gây đau và không gây chảy máu. Có thể nhìn thấy cái ghẻ, trứng và phân dưới kính hiển vi.

Chẩn đoán phân biệt

Cần phải phân biệt bệnh ghẻ với các dạng chấy rận khác và các dạng ngứa do các nguyên nhân khác.

Điều trị và tiên lượng

Cần phải giặt sạch quần áo và chăn gối. Nếu bệnh không bị phức tạp thêm do viêm da mủ thứ phát nghiêm trọng, điều trị bằng khử trùng sơ đẳng. Nếu có biểu hiện viêm da mủ thứ phát, cần phải điều trị toàn thân và bôi kháng sinh. Nếu không điều trị cho tất cả mọi người bị nhiễm bệnh trong một gia đình hoặc trong một nhóm thì rất có thể sẽ bị tái nhiễm. Các trường họp có vẻ “kháng” với lindan hoặc với crotamiton không hề ít gặp nhưng kháng kem permethrin 5% thì rất hiếm gặp.

Đối với người lớn, cách điều trị thông thường là khử trùng bằng lindan (gamma benzen hexachlorid) 1% trong kem hoặc dung dịch, nên bôi tử cổ trở xuống và để qua đêm. FDA đã cảnh báo về khả năng ảnh hưởng thần kinh và đối với việc dùng thuốc ở trẻ em và phụ nữ cũng như không nên lạm dụng thuốc. Có thể dùng cách này trước khi kiểm soát được sự nhiễm bệnh thứ phát.

Kem bôi permethrin 5% có hiệu quả rất cao và an toàn trong điều trị bệnh ghẻ. Chỉ dùng một lần. Thuốc có thể dùng cho trẻ em từ 2 tháng đến 2 tuổi và được lựa chọn chữa trị cho trẻ em. Cũng có thể dùng kem hoặc nước rửa crotamiton theo như cách dùng lindan nhưng dùng trong 5 đêm. Loại này ít có hiệu quả hơn nhiều. Các bệnh nhân có thai chỉ được điều trị nếu họ đã có chẩn đoán chắc chắn bệnh ghẻ và trong trường hợp này người ta dùng kem permethrin 5%.

Thuốc loại cũ có chứa 5% hoặc 6% sunfur trong petrolatum có thể vẫn sử dụng được cho các bệnh nhân có thai dùng vào buổi đêm và bôi từ cổ trở xuống, dùng trong 3 đêm nhưng phải chuẩn bị điều trị viêm da kích thích. Benzyl benzoat có thể được pha trộn thành kem hoặc nước bôi nồng độ từ 20% tới 35% và dùng bôi toàn thân (từ cổ trở xuống) qua đêm và điều trị hai lần một tuần riêng rẽ. Công thức NF XIV là 275 ml benzyl benzoat (có chứa 5g triethanolamin và 20g acid oleic) trong nước cho đủ thể tích 1000ml. Công thức này không gây mất thẩm mỹ, sạch sẽ và không quá kích thích. Bệnh nhân sẽ tiếp tục bị ngứa trong vài tuần sau khi điều trị. Dùng kem triamcinolon 0,1% sẽ giải quyết được chứng viêm da.

Các mụn nước ngứa kéo dài sau khi ghẻ có thể được điều trị bằng steroid tác dụng trung bình cho tới mạnh hoặc bằng triamcinolon acetonid bôi tại chỗ tổn thương (2,5 - 5mg/ml).

Bài viết cùng chuyên mục

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.