- Trang chủ
- Thông tin
- Chẩn đoán và điều trị theo y học hiện đại
- Mất ý thức thoáng qua: ngất và co giật
Mất ý thức thoáng qua: ngất và co giật
Chẩn đoán mất ý thức thoáng qua thường dựa vào sự tái diễn, và sự phân tầng nguy cơ là điều thiết yếu để xác định những người cần phải nhập viện, và những người được lượng giá an toàn như bệnh nhân ngoại trú.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Mất ý thức thoáng qua (T-LOC) là một thách thức trong chẩn đoán. Biến cố này thường thoái lui dần cho đến khi đánh giá và các yếu tố của cơn trong bệnh sử cũng không được biết rõ đối với các bệnh nhân. Sự tường thuật lại của nhân chứng do đó mà cực kỳ rất có giá trị. Chẩn đoán thường dựa vào sự tái diễn vấn đề và sự phân tầng nguy cơ một cách kỹ lưỡng của các bệnh nhân là điều thiết yếu để xác định những người cần phải nhập viện và những người được lượng giá an toàn như bệnh nhân ngoại trú.
Ngất
Ngất bao hàm cả mất ý thức thoáng qua, là kết quả của tình trạng giảm tưới máu toàn bộ não, đặc trưng với huyết áp < 60 mmHg kéo dài > 6s. Ngất có thể chia làm 4 dưới nhóm dựa vào các nguyên nhân cơ bản sau:
Ngất do rối loạn nhịp tim - do cung lượng tim bị tổn thương thoáng qua gây ra bởi các rối loạn nhịp nhanh hoặc nhịp chậm ví dụ như nhịp nhanh thất hoặc block tim hoàn toàn.
Ngất tim - do bệnh lý tim cấu trúc, đặc biệt trong tắc nghẽn đường ra thất trái như hẹp động mạch chủ nặng, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn. Thuyên tắc mạch phổi cấp, bóc tách động mạch chủ cũng có thể gây ngất (ngất do rối loạn nhịp và ngất tim thường được gộp chung dưới thuật ngữ là ngất tim, tuy nhiên cũng hữu ích khi ta xem xét để tách riêng chúng ra như vậy).
Ngất tư thế - do suy giảm chức năng duy trì cân bằng nội môi của huyết áp được cho là khi ở tư thế đứng. Ví dụ gây ra bởi các thuốc hạ huyết áp.
Ngất do phản xạ (thông qua trung gian thần kinh): phản xạ giãn mạch và/hoặc nhịp chậm xảy ra trong khi đáp ứng với một yếu tố kích hoạt đặc biệt ví dụ như ngất xỉu phế vị - mạch máu, hoặc ngất do xoang cảnh.
Co giật
Sự rối loạn hoạt động điện tác động trên toàn não bộ (co giật 'toàn thể') có thể dẫn đến mất ý thức thoáng qua. Tình trạng trên có thể là nguyên phát hoặc là hậu quả của một cơn co giật cục bộ rồi sau đó lan ra toàn bộ não (toàn thể thứ phát). Khi không có hiện tượng toàn thể hóa thứ phát, co giật cục bộ có thể làm thay đổi ý thức (co giật cục bộ phức tạp) mà không kèm mất ý thức thoáng qua. Động kinh có xu hướng co giật tái diễn. Các yếu tố có thể khởi phát co giật ở những bệnh nhân bị động kinh.
Hạ đường huyết
Hạ đường huyết có thể gây suy giảm ý thức, được giải quyết bằng cách hiệu chỉnh lượng glucose trong máu. Hầu hết các trường hợp là do sử dụng thuốc, từ các thuốc điều trị đái tháo đường như Insulin hoặc sulfonylurea. Các nguyên nhân gây hạ đường huyết tự phát bao gồm rượu, suy gan, u tiết insulin, suy thượng thận.
Rối loạn chức năng (mất ý thức thoáng qua biểu kiến)
Giả co giật và giả ngất là những thuật ngữ được dùng để miêu tả những giai đoạn tương tự như co giật và ngất nhưng lại không có một cơ chế bản thể bên dưới nào ví dụ như không có hoạt động dạng động kinh hoặc giảm tưới máu não. Chúng có thể gây khó khăn cho chẩn đoán chính và có thể cần phải nhờ sự đánh giá của các chuyên gia. Các đặc điểm có thể làm gia tăng sự nghi ngờ về một nguyên nhân chức năng hơn là các triệu chứng về mất ý thức thực sự.
Nguyên nhân khác
Khi hình thái lâm sàng không gợi ý đến cơn co cứng - co giật hoặc ngất, hãy xem xét đến những nguyên nhân hiếm gặp như chứng mất trương lực cơ, chứng ngủ rũ và các cơn co giật không điển hình ví dụ như cơn vắng ý thức, cũng như những tình trạng có thể nhầm lẫn với mất ý thức thoáng qua bao gồm té ngã,rối loạn chức năng, ngộ độc thuốc/rượu. Thiếu máu não thoáng qua biểu hiện các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh khu trú và rất hiếm khi gây ra mất ý thức thoáng qua. Chấn động não là nguyên nhân thường gặp của mất ý thức thoáng qua có liên quan đến chấn thương đầu.
Các yếu tố khởi phát co giật
Uống quá nhiều rượu hoặc cai rượu.
Lạm dụng thuốc kích thích.
Mất ngủ.
Kiệt quệ thể chất/tâm thần.
Nhiễm trùng lặp đi lặp lại (tái diễn).
Rối loạn chuyển hóa (giảm Na+, giảm Mg2+, giảm Ca2+, tăng ure máu, suy gan).
Không dung nạp với thuốc hoặc tương tác của thuốc.
Ánh sáng nhấp nháy (lập lòe).
Các đặc điểm không điển hình trong mất ý thức thoáng qua biểu kiến
Quá trình diễn ra cơn > 5 phút.
Mắt nhắm kín trong suốt cơn.
Nhiều cơn trong ngày.
Các cử động có chủ đích trong suốt quá trình mất ý thức thoáng qua biểu kiến.
Các chẩn đoán rối loạn chức năng khác trước đó ví dụ hội chứng mệt mỏi mạn tính.
Bài viết cùng chuyên mục
Tiêu chuẩn Duke cải tiến để chẩn đoán viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Cấy máu dương tính với các sinh vật gây viêm nội tâm mạc nhiễm trùng điển hình, từ 2 mẫu cấy máu riêng biệt hoặc 2 mẫu cấy dương tính từ các mẫu lấy cách nhau > 12 giờ, hoặc 3 hoặc phần lớn 4 lần cấy máu riêng biệt.
Vàng da: đánh giá cận lâm sàng theo bệnh cảnh lâm sàng
Cân nhắc huyết tán ở những bệnh nhân vàng da mà không có đặc điểm bệnh gan kèm theo và có các bằng chứng của tăng phá vỡ hồng cầu, bất thường về hình ảnh hồng cầu (mảnh vỡ hồng cầu), có thể có bằng chứng tăng sản xuất hồng cầu.
Chẩn đoán bệnh lý: những xác suất và nguy cơ
Chẩn đoán khi xác suất xuất hiện được cho là đủ cao, và loại trừ chẩn đoán khi xác suất đủ thấp. Mức độ chắc chắn đòi hỏi phải dựa vào các yếu tố như hậu quả của sự bỏ sót các chẩn đoán đặc biệt, tác dụng phụ của điều trị và các nguy cơ của test chuyên sâu.
Phân tích triệu chứng chóng mặt để chẩn đoán và điều trị
Triệu chứng chóng mặt có thể bao gồm ngất xỉu, choáng váng, lâng lâng hoặc đứng không vững, chóng mặt thực sự, cảm giác chuyển động bất thường hoặc quay cuồng.
Tăng bạch cầu ái toan: phân tích triệu chứng
Bạch cầu ái toan phát triển từ tiền chất myeloid trong tủy xương thông qua hoạt động của ít nhất ba cytokine tạo máu. Interleukin-5 (IL-5) đặc hiệu cho quá trình biệt hóa bạch cầu ái toan.
Mất ý thức thoáng qua: phân tích bệnh cảnh lâm sàng
Trước khi cho bệnh nhân xuất viện, thông báo về các quy định luật lái xe và khuyên họ tránh các hoạt động nơi mà mất ý thức thoáng qua có thể gây nguy hiểm như bơi, vận hành máy móc nặng, đi xe đạp.
Định hướng chẩn đoán tiêu chảy
Tiêu chảy cấp dưới hai tuần thường do nhiễm trùng gây ra, đôi khi có liên quan đến việc sử dụng thuốc hoặc bệnh cảnh đầu tiên của bệnh lý ruột viêm, tiêu chảy mạn tính có thể là biểu hiện của bệnh lý ruột viêm, ung thư đại trực tràng.
Viêm họng: phân tích triệu chứng
Viêm họng bao gồm nhiều loại nguyên nhân, nhưng phổ biến nhất ở những người có khả năng miễn dịch bình thường là viêm họng nhiễm trùng cấp tính, chủ yếu là do virus.
Định hướng chẩn đoán tình trạng chóng mặt choáng váng
Đánh giá choáng váng nằm ở chỗ xác định bản chất chính xác các triệu chứng của bệnh nhân, thỉnh thoảng, thay đổi ý thức thoáng qua hay khiếm khuyết thần kinh khu trú được mô tả như là choáng váng.
Giảm bạch cầu trung tính: phân tích triệu chứng
Ba quá trình cơ bản dẫn đến giảm bạch cầu trung tính mắc phải bao gồm giảm sản xuất, tăng cường phá hủy ngoại vi và tổng hợp bạch cầu trung tính trong nội mạc mạch máu hoặc mô.
Lú lẫn mê sảng do hạ natri máu: các bước đánh giá lâm sàng
Giảm nhanh Na+ huyết tương có thể dẫn đến phù não đe dọa tính mạng và yêu cầu phải điều chỉnh nhanh chóng. Ngược lại giảm từ từ Na+ cho phép các neuron thần kinh điều chỉnh thích nghi áp lực thẩm thấu.
Đánh giá bệnh nhân: hướng dẫn thực hành
Những bệnh nhân bị bệnh cấp tính đòi hỏi cần được lượng giá một cách nhanh chóng theo các bước ABCDE với những trường hợp đe dọa tính mạng hoặc có sự xáo trộn lớn về sinh lý.
Sốt: mở rộng tầm soát nhiễm trùng ở từng nhóm bệnh nhân
Nếu sốt đi kèm tiêu chảy, cách ly bệnh nhân, chú ý tiền sử đi du lịch gần đây và tiến hành lấy mẫu phân xét nghiệm. Nhanh chóng hội chẩn với khoa vi sinh và truyền nhiễm nếu có nghi ngờ bệnh tả, ví dụ ở người làm việc ở khu vực có nguy cơ cao.
Khó thở mãn tính: đánh giá triệu chứng của các bệnh lý thực thể
Tìm kiếm bằng chứng khách quan của phục hồi hoặc biến đổi đường thở để khẳng định chấn đoán: Thực hiện bởi phế dung kế sau đó yêu cầu bệnh nhân ghi lại nhật ký lưu lượng thở đỉnh. Xem xét đánh giá chuyên khoa nếu như chẩn đoán không chắc chắn.
Sốt phát ban: phân tích triệu chứng
Tiếp cận chẩn đoán phân biệt là phân biệt giữa các thực thể khác nhau gây sốt và bệnh tật bằng các loại phát ban mà chúng thường gây ra.
Tiểu máu: phân tích triệu chứng
Tiểu máu đại thể với sự đổi màu đỏ rõ ràng, lớn hơn 50 tế bào hồng cầu/trường năng lượng cao hoặc tiểu máu vi thể được phát hiện bằng que nhúng sau đó kiểm tra bằng kính hiển vi.
Khối u vú: đặc điểm ác tính và lành tính
Siêu âm là phương thức chấn đoán hình ảnh được lựa chọn cho phụ nữ dưới 35 tuổi do mô u có mật độ cao. Đánh giá bệnh học được thực hiện bằng chấn đoán tế bào học bằng chọc hút kim nhỏ hoặc sinh thiết lõi hoặc đôi khi là xẻ sinh thiết.
Đau vai: phân tích triệu chứng
Không thể đánh giá các quá trình bệnh lý một cách riêng biệt vì mối quan hệ phức tạp của đai vai với các cấu trúc khác. Vai bao gồm ba xương và bốn bề mặt khớp.
Sốt: đánh giá chuyên sâu ở bệnh nhân sốt dai dẳng không rõ nguyên nhân
Nếu nguyên nhân gây sốt vẫn không rõ ràng, tiếp tục làm các xét nghiệm chuyên sâu với chụp bạch cầu gắn nhãn, xạ hình xương, siêu âm Doppler và/hoặc sinh thiết gan, và cân nhắc các chẩn đoán loại trừ, ví dụ bệnh Behget's, sốt địa Trung Hải, sốt giả tạo.
Chóng mặt và choáng váng: các nguyên nhân
Thỉnh thoảng, thay đổi ý thức thoáng qua hay khiếm khuyết thần kinh khu trú được mô tả như là choáng váng. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhân với choáng váng có chóng mặt, đau đầu nhẹ, muốn xỉu/ cảm giác mất thăng bằng.
Tiểu khó: đi tiểu đau
Nghiên cứu thuần tập được thiết kế đã chỉ ra rằng một số phụ nữ có thể được chẩn đoán đáng tin cậy với viêm bàng quang không biến chứng mà không có kiểm tra thể chất.
Đi tiểu ra máu: các nguyên nhân thường gặp
Tiểu máu đại thể gợi ý nghĩ nhiều đến bệnh lý đường tiểu và luôn đòi hỏi phải đánh giá thêm. Tiểu máu vi thể thường tình cờ phát hiện ở bệnh nhân không có triệu chứng và thách thức nằm ở việc phân biệt các nguyên nhân lành tính với các bệnh lý nghiêm trọng.
Điện tâm đồ trong nhồi máu cơ tim có ST chênh lên
ST chênh lên ở các chuyển đạo V2-V5 có thể là dấu hiệu bình thường của tái cực sớm lành tính (‘high take-off’) và, nếu không có điện tâm đồ trước đó có thể gây ra chẩn đoán nhầm.
Chảy máu trực tràng: phân tích triệu chứng
Đánh giá ban đầu nên xác định mức độ nghiêm trọng và sự ổn định huyết động của bệnh nhân và xác định nguồn gốc của chảy máu là đường tiêu hóa trên hoặc dưới về bản chất.
Tiếng thổi tâm trương: phân tích triệu chứng khi nghe tim
Tiếng thổi tâm trương thường do hẹp van hai lá hoặc van ba lá hoặc hở van động mạch chủ hoặc van động mạch phổi, tiếng thổi tâm trương thường không được coi là bệnh lý.
