- Trang chủ
- Thông tin
- Chẩn đoán và điều trị theo y học hiện đại
- Đi tiểu ra máu: đánh giá các triệu chứng lâm sàng
Đi tiểu ra máu: đánh giá các triệu chứng lâm sàng
Tiểu máu vi thể đơn độc thường phổ biến và do bệnh lý lành tính như hội chứng màng đáy cầu thận mỏng. Cần đảm bảo rằng các nguyên nhân ở trên đã được loại trừ; làm cho bệnh nhân yên tâm rằng xét nghiệm thêm là không cần thiết.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tiểu máu đại thể, có triệu chứng hoặc kéo dài
Kiểm tra các nguyên nhân khác gây đổi màu nước tiểu. Test que thử nước tiểu (ít nhất 1+) được sử dụng để phát hiện tiểu máu vi thể; soi nước tiểu thường quy không được khuyến cáo nhưng có thể được chỉ định ở những trường hợp không rõ ràng như nghi ngờ myoglobin niệu. Nếu test que thử dương tính, hỏi cụ thể về các đợt tiểu máu đại thể.
Đánh giá thêm theo mô tả dưới đây nếu có:
Tiểu máu đại thể.
Đau thắt lưng hoặc triệu chứng đường tiểu dưới.
> 2/3 test dương tính ở bệnh nhân không có triệu chứng.
Cơn đau quặn thận
Sự kết hợp của tiểu máu và cơn đau quặn thận gợi ý tắc nghẽn niệu quản, thường do sỏi hoặc ít phổ biến hơn là do cục máu đông hoặc mảng tróc của nhú thận. Xác định sự hiện diện và vị trí của sỏi bằng chụp niệu đồ tĩnh mạch (IVU) hoặc CT, được ưa dùng hơn. Theo dõi cẩn thận sự giảm lưu lượng nước tiểu hoặc bằng chứng của nhiễm trùng và tiến hành tìm hiểu thêm để xác định nguyên nhân nền, như thành phần hóa học của sỏi; calci/ phosphate/ acid uric trong huyết thanh.
Bằng chứng của nhiễm trùng đường tiết niệu, hành kinh hoặc chấn thương gần đây/ gắng sức
Chuyển đến khoa tiết niệu nếu tiểu máu đại thể sau phẫu thuật hoặc các thủ thuật xâm nhập đường tiết niệu như sinh thiết thận, soi niệu quản, cắt tiền liệt tuyến qua niệu đạo hoặc chấn thương bụng/chậu/cơ quan sinh dục.
Nếu bạch cầu và nitrite niệu (-) trên que thử thì sẽ có giá trị loại trừ nhiễm trùng đường tiết niệu trong phần lớn các trường hợp. Nếu test que thử (+) hoặc lâm sàng nghi ngờ nhiều, gửi nước tiểu giữa dòng; điều trị nhiễm trùng nếu xác định có nhiễm trùng, sau đó kiểm tra lại đái máu vi thể.
Lặp lại test que thử một ngày sau đó nếu test đã được thực hiện trong thời kỳ hành kinh, sau gắng sức hoặc sau đặt thông tiểu.
Cân nhắc viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn nếu có sốt, xuất huyết dưới móng (splinter haemorrhages), tổn thương đặc trưng hoặc tiếng thổi mới xuất hiện.
Đừng cho rằng tiểu máu là do nguyên nhân điều trị chống đông hoặc chống ngưng tập tiểu cầu nếu chưa xét nghiệm, tìm hiểu thêm.
Tiểu máu đại thể, triệu chứng đường tiểu dưới, tuổi > 40 hoặc có các yếu tố nguy cơ cao
Khi không có cơn đau quặn thận và theo như điều trị/loại trừ các nguyên nhân tiểu máu thoáng qua, phải loại trừ ung thư nếu có biểu hiện bất cứ đặc điểm nào sau đây:
Tiểu máu đại thể.
Triệu chứng đường tiểu dưới.
Tuổi > 40.
Các đặc điểm nguy cơ cao.
Chuyển đến khoa tiết niệu để tiến hành cận lâm sàng bổ sung như CT niệu (hoặc siêu âm thận ± IVU) và soi bàng quang.
Giảm mức lọc cầu thận, protein niệu, tăng huyết áp hoặc lâm sàng nghi ngờ bệnh thận
Chuyển đến chuyên gia thận học để đánh giá thêm ± sinh thiết thận nếu có bất kì đặc điểm nào sau đây:
Protein niệu, tỷ lệ albumin/ creatinine > 30.
Giảm chức năng thận (GFR < 60 mL/ min).
Tăng huyết áp ở bệnh nhân < 40 tuổi.
Bệnh mô liên kết, ví dụ như lupud ban đỏ hệ thống.
Tiền sử gia đình về Hội chứng Alport/ bệnh thận đa nang ở người trưởng thành.
Các đợt tiểu máu đại thể xuất hiện cùng với nhiễm trùng đường niệu cấp tính.
Tiểu máu không rõ nguyên nhân. Theo dõi thường quy.
Tiểu máu vi thể đơn độc thường phổ biến và do bệnh lý lành tính như hội chứng màng đáy cầu thận mỏng. Cần đảm bảo rằng các nguyên nhân ở trên đã được loại trừ; làm cho bệnh nhân yên tâm rằng xét nghiệm thêm là không cần thiết, nhưng cần theo dõi các đặc điểm làm bệnh nhân lo lắng như các triệu chứng đường tiểu mới xuất hiện, tiểu máu đại thể, protein niệu hoặc suy chức năng thận.
Bài viết cùng chuyên mục
Phù chân: đánh giá dựa trên kết quả lâm sàng và cận lâm sàng
Cân nhắc huyết khối tĩnh mạch sâu ở bất kỳ bệnh nhân nào có phù chân cả hai bên, kể cả khi các yếu tố nguy cơ hoặc những triệu chứng/ dấu chứng khác không rõ ràng.
Đi tiểu ra máu: các nguyên nhân thường gặp
Tiểu máu đại thể gợi ý nghĩ nhiều đến bệnh lý đường tiểu và luôn đòi hỏi phải đánh giá thêm. Tiểu máu vi thể thường tình cờ phát hiện ở bệnh nhân không có triệu chứng và thách thức nằm ở việc phân biệt các nguyên nhân lành tính với các bệnh lý nghiêm trọng.
Mục tiêu của việc thăm khám lâm sàng
Hiệu lực của một phát hiện vật lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố, kinh nghiệm lâm sàng và độ tin cậy của các kỹ thuật khám là quan trọng nhất.
Mệt mỏi: đánh giá các nguyên nhân tinh thần và thể chất
Bệnh sử khai thác cẩn thận có thể cho thấy rằng vấn đề thực tế không chỉ là mệt mỏi, chẳng hạn hụt hơi, nên được tiếp tục kiểm tra. Nếu có các đặc điểm khu trú hoặc đặc hiệu hơn, chẳng hạn ho ra máu, sốt, vàng da lộ rõ, nên được tập trung đánh giá đầu tiên.
Phân tích và quyết định trong chẩn đoán bệnh lý
Thông thường, cây quyết định được sử dụng để đại diện cho các lựa chọn thay thế khác nhau, với các xác suất được chỉ định cho các lựa chọn thay thế và tiện ích gắn liền với các kết quả có thể xảy ra.
Đau ngực cấp: đặc điểm đau ngực do tim và các nguyên nhân khác
Mục đích chủ yếu là để nhận diện hội chứng vành cấp và những nguyên nhân đe dọa mạng sống khác như bóc tách động mạch chủ và thuyên tắc phổi. Phân tích ECG, xquang ngực và marker sinh học như troponin, D-dimer đóng vai trò quan trọng.
Đánh giá nhồi máu cơ tim không có ST chênh/ đau thắt ngực không ổn định
Phân tầng nguy cơ bệnh nhân bằng thang điểm TIMI hoặc các thang điểm khác. Cho dù bệnh nhân có biến chứng hay đau ngực tiếp diễn, nên theo dõi điện tâm đồ liên tục cho bệnh nhân nguy cơ trung bình.
Viêm họng: phân tích triệu chứng
Viêm họng bao gồm nhiều loại nguyên nhân, nhưng phổ biến nhất ở những người có khả năng miễn dịch bình thường là viêm họng nhiễm trùng cấp tính, chủ yếu là do virus.
Giảm sút cân không chủ đích
Giảm cân không tự nguyện được coi là có ý nghĩa về mặt lâm sàng khi nó vượt quá 5 phần trăm hoặc hơn trọng lượng cơ thể bình thường trong khoảng thời gian từ 6 đến 12 tháng
Phân mỡ: phân tích đặc điểm
Phân mỡ được định nghĩa một cách định lượng là có hơn 7g chất béo trong phân trong khoảng thời gian 24 giờ trong khi bệnh nhân đang ăn kiêng không quá 100 g chất béo mỗi ngày.
Hôn mê: phân tích để chẩn đoán và điều trị
Hôn mê là tình trạng bất tỉnh một khoảng thời gian kéo dài được phân biệt với giấc ngủ bởi không có khả năng đánh thức bệnh nhân.
Định hướng chẩn đoán trước một tình trạng sốt
Sốt thường xảy ra như một phần của đáp ứng pha cấp của do nhiễm trùng, nhiễm trùng gây ra đáp ứng viêm hệ thống có tỉ lệ tử vong đáng kể và cần phải được nhận diện và điều trị kịp thời.
Thiểu niệu và vô niệu: phân tích triệu chứng
Thiểu niệu cấp tính nên được nhập viện do nguy cơ phát triển các biến chứng có thể gây tử vong như tăng kali máu, quá tải dịch, nhiễm toan chuyển hóa và viêm màng ngoài tim.
Chóng mặt choáng váng: triệu chứng nghiêm trọng tiền ngất
Xem xét các cơn váng đầu có xuất hiện trong khi bệnh nhân đang đứng và có yếu tố khởi phát rõ ràng không, ví dụ như xúc cảm mạnh, tiêm tĩnh mạch, đứng lâu và/hoặc kèm theo các triệu chứng phó giao cảm như nôn, vã mồ hôi, rối loạn thị giác.
Liệu pháp insulin trong điều trị đái tháo đường: tuýp 1 và tuýp 2
Liệu pháp insulin nền và liệu pháp insulin tích cực, cho bệnh nhân đái tháo đường không đạt mục tiêu đường huyết
Xét nghiệm Covid-19: hướng dẫn thu thập và xử lý bệnh phẩm
Đối với xét nghiệm chẩn đoán ban đầu với các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 hiện tại, khuyến nghị nên thu thập và xét nghiệm bệnh phẩm đường hô hấp trên.
Phân tích triệu chứng sốt để chẩn đoán và điều trị
Sốt được định nghĩa là sự gia tăng nhiệt độ trung tâm của cơ thể trên mức bình thường hàng ngày đối với một cá nhân.
Chảy máu sau mãn kinh: phân tích triệu chứng
Chảy máu âm đạo bất thường là một vấn đề ngoại trú phổ biến, xảy ra ở 10% phụ nữ trên 55 tuổi và chiếm 70% số lần khám phụ khoa trong những năm tiền mãn kinh và sau mãn kinh.
Rối loạn cương dương: phân tích triệu chứng
Rối loạn cương dương, trước đây thường được gọi là bất lực, được định nghĩa là không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng đủ để giao hợp, về bản chất là một chẩn đoán do bệnh nhân xác định.
Tiểu không tự chủ: phân tích triệu chứng
Tỷ lệ tiểu không tự chủ tăng theo tuổi và cao tới 34% ở nữ và 11% ở nam. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc rút lui khỏi xã hội và mất khả năng sống độc lập.
Tập thể dục: phòng ngừa bệnh tật
Tập thể dục - Phòng ngừa bệnh tật! Tập thể dục thường xuyên có nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tăng huyết áp, tăng lipid máu, bệnh tiểu đường loại 2, bệnh túi thừa và loãng xương thấp hơn...
Mất ý thức thoáng qua: đánh giá các vấn đề tuần hoàn hô hấp
Bằng chứng trên điện tâm đồ của thiếu máu cơ tim cấp gợi ý rối loạn nhịp thứ phát do thiếu máu; ví dụ nhịp nhanh thất, ngất liên quan đến thiếu máu cơ tim. Thảo luận ngay với bác sĩ tim mạch nếu bất kỳ đặc điểm nào ở trên hiện diện.
Đánh trống ngực: phân tích triệu chứng
Đánh trống ngực là một nhận thức bất thường khó chịu về nhịp tim. Chúng thường được mô tả là tim đập thình thịch.
Insulin tiêm dưới da cho bệnh nhân nằm viện: phác đồ và mục tiêu điều trị
Có khoảng ba mươi phần trăm, bệnh nhân nhập viện bị tăng đường huyết, nhiều bệnh nhân trong số này có tiền sử đái tháo đường trước đó
Bệnh tiêu chảy: đánh giá đặc điểm
Tiêu chảy có thể đi kèm với sốt, đau quặn bụng, đại tiện đau, phân nhầy và/hoặc phân có máu, ngoài ra, thời gian tiêu chảy có tầm quan trọng lâm sàng đáng kể.
