- Trang chủ
- Thông tin
- Chẩn đoán và điều trị theo y học hiện đại
- Đau thắt ngực từng cơn: đánh giá triệu chứng đau ngực
Đau thắt ngực từng cơn: đánh giá triệu chứng đau ngực
Nhiều bệnh nhân không thể chẩn đoán chắc chắn. Đánh giá lại những bệnh nhân mà xét nghiệm không đi đến kết luận đau thắt ngực hoặc nguy cơ cao bệnh mạch vành nếu triệu chứng dai dẳng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Điểm đau thắt ngực = 3 hoặc điểm đau thắt ngực = 2+ nguy cơ bệnh mạch vành cao/trung bình
Dấu hiệu của đau thắt ngực ổn định là sự tương ứng giữa triệu chứng và thay đổi công của tim. Cảm giác khó chịu ở ức đồng thời với gắng sức và giảm nhanh (< 5 phút) sau nghỉ ngơi, rất gợi ý đau thắt ngực. Tính chất của cảm giác khó chịu rất thay đổi và thường mơ hồ hoặc không đặc hiệu. Khả năng đau thắt ngực cũng phụ thuộc nguy cơ bệnh mạch vành. Hầu hết xơ vữa động mạch vành là yếu tố gây bệnh chủ yếu của đau thắt ngực, nên bệnh nhân có nguy cơ bệnh mạch vành thấp cũng có nguy cơ đau thắt ngực thấp.
Tính điểm đau thắt ngực dựa trên ba tiêu chuẩn, sau đó phân tầng nguy cơ chính của bệnh động mạch vành dựa trên tuổi, giới và yếu tố nguy cơ.
Nếu điểm đau thắt ngực = 3, đánh giá thêm đau thăt ngực bất chấp yếu tố nguy cơ.
Nếu điểm đau thắt ngực = 2, đánh giá thêm đau thắt ngực trừ khi nguy cơ bệnh mạch vành thấp.
Xem xét đánh giá thêm đau thắt ngực nếu bệnh nhân nguy cơ bệnh mạch vành cao mà tiền sử mơ hồ.
Tính chất của đau do thiếu máu cục bộ
Biểu hiện điểu hình của thiếu máu cơ tim là cảm giác khó chịu ở ức lan tỏa, lan lên cổ, hàm và vai trái (hoặc phải) và/hoặc tay và đau kiểu bị siết chặt, đè ép. Nó thường được mô tả là cảm giác khó chịu hơn là đau. Bệnh nhân thường minh họa bằng đặt bàn tay hay nắm tay lên giữa ngực.
Những cơn đau ngắt quãng của thiếu máu cơ tim không liên quan với gắng sức có thể xẩy ra khi tắt nghẽn mạch vành nặng vì vỡ mảng xơ vữa và tạo thành huyết khối (đau thắt ngực không ổn định), co thắt mạch vành (đau thắt ngực do co thắt mạch) hoặc nhịp nhanh kịch phát (đặc biệt có hẹp động mạch vành). Co thắt thực quản có thể gây ra triệu chứng gần giống cảm giác khó chịu do thiếu máu và cũng ít liên quan đến gắng sức.
Xem xét những chẩn đoán này ở những bệnh nhân có cảm giác khó chịu đặc trưng của thiếu máu mà thiếu sự liên quan với gắng sức hoặc (trừ đau thắt ngực không ổn định) ở những người mà trắc nghiệm gắng sức không chứng minh thuyết phục thiếu máu cơ tim.
Nghi ngờ đau thắt ngực không ổn định và chuyển bệnh nhân tới khoa tim mạch nếu có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:
Triệu chứng mói hởi phát trong 2 tuần gần đây;
Những cơn khó chịu trước đây liên quan với gắng sức nhưng giờ xảy ra cả lúc nghỉ ngơi;
Bất thường mới xuất hiện trên điện tâm đồ lúc nghĩ ngơi;
Nghi ngờ nhịp nhanh kịch phát nếu có bất kỳ biểu hiện nào sau đây:
Đánh trống ngực trước và trong lúc có triệu chứng;
Ghi nhận rối loạn nhịp nhanh trước đó;
Thời gian xảy ra triệu chứng ít thay đổi Nếu nghi ngờ, thử ghi nhận nhịp trong con có triệu chứng điển hình.
Nghi ngờ đau thắt ngực do co mạch nếu có bất kì biểu hiện nào dưới đây:
Không có yếu tố khởi phát rõ ràng;
Khởi phát đột ngột triệu chứng dữ dội ± biểu hiện thần kinh tự động;
Cơn ngắn (2-5 phút);
Những cơn xảy ra liên tiếp.
Nếu nghi ngờ, xem xét thử Holter điện tâm đồ để tìm kiếm bằng chứng ST chênh lên trong thời gian có triệu chứng.
Nghi ngờ co thắt thực quản nếu có bất kỳ biểu hiện nào dưới đây:
Khó nuốt từng cơn;
Tiền sử có triệu chứng điển hình của trào ngược dạ dày thược quản;
Khó chịu nổi trội vào buổi tối sau khi ăn Nếu tiền sử gợi ý trào ngược dạ dày thực quản, đánh giá lại sau khi cho bệnh nhân thuốc ức chế bơm proton, ngược lại, chuyển bệnh nhân đến khoa tiêu hóa để xem xét nội soi tiêu hóa trên/ đo áp lực thực quản.
Điểm triệu chứng đau thắt ngực
Khó chịu sau xương ức không kèm biểu hiện không điển hình(1): 1 điểm.
Khó chịu tăng lên khi gắng sức(2): 1 điểm.
Khó chịu giảm khi nghỉ ngơi hoặc dùng Glyceryl Trinitrat trong 5-10 phút: 1 điểm
(1) Những biểu hiện không điển hình gồm đau kiểu dao đâm, thay đổi đáng kể theo hô hấp hay tư thế; hoặc tính khu trú cao cỡ đầu mút ngón tay.
(2) Không tính điểm nếu cảm giác khó chịu chỉ thoáng qua, sau gắng sức nhưng không có trong lúc gắng sức, gây ra bởi những cử động/hành động đặc hiệu; hoặc không có mối liên quan phù hợp nào như xảy ra thường xuyên không cần bát kì kích thích nào.
Khó chịu sau xương ức kiểu: (a) nóng hoặc 3 bỏng rát, (b) giảm khi cho kháng acid hoặc (c) nặng lên bởi thức ăn/nằm xuống
Nếu đau không có khả năng do tim, tìm những biểu hiện diển hình của các rối loạn khác. Những biểu hiện gợi ý trào ngược dạ dày thực quản; triệu chứng đáp ứng với thuốc ức chế acid như ức chế bơm proton, hiệu quả này giúp xác nhận chẩn đoán.
Đau khu trú, gây ra bởi những cử động đặc hiệu hoặc sờ nắn
Đau cơ có thể biểu hiện bằng nhiều cách. Những biểu hiện trên mang tính gợi ý như chấn thương gần đây, kéo căng hoặc hoạt động mạnh hơn thường lệ. Xét nghiệm bổ sung hiếm khi càn thiết, triệu chứng đáp ứng với thuốc giảm đau thông thướng giúp xác nhận chẩn đoán.
Khò khè, thở hỗn hển, ho
Hen và bệnh phổi tắt nghẽn mạn tính có thể làm khó việc phân biệt với đau thắt ngực trong bối cảnh lâm sàng mà triệu chứng nặng lên bởi gắng sức và tạo ra cảm giác như thắt ngực. Biểu hiện giúp ích cho chẩn đoán có thể gồm tiền sử ho và khò khè (đặc biệt là về đêm), triệu chứng thay đổi khi ban ngày, có khò khè lúc thăm khám, tiền sử dị ứng và không có yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành. Nếu nghi ngờ hen hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Đau nặng lên bởi stress/cảm xúc mạnh hoặc liên quan với biểu hiện giảm thông khí
Chẩn đoán những cơn đau ngực do lo lắng là một thách thức. Cảm xúc đau buồn làm tăng công của tim và có thể thúc đẩy đau thắt ngực, nhưng triệu chứng chỉ xảy ra trong bối cảnh này có khả năng cao hơn là do căn nguyên tâm lý. Những biểu hiện liên quan của hoảng sợ và tăng thông khí trong cơn như thở hỗ hển (không có khả năng lấy đủ khí) hoặc cảm giác nghẹt thở, râm ang đầu chi và hoa mắt, hỗ trợ chẩn đoán. Tìm sự giúp đỡ của chuyên gia trước khi quy một đau ngực mới xuất hiện là do lo lắng ở bệnh nhân nguy cơ cao bệnh mạch vành.
Đánh giá đau thắt ngực ở bệnh nhân nguy cơ cao bệnh mạch vành. Xem xét những nguyên nhân khác
Nhiều bệnh nhân không thể chẩn đoán chắc chắn. Đánh giá lại những bệnh nhân mà xét nghiệm không đi đến kết luận đau thắt ngực hoặc nguy cơ cao bệnh mạch vành nếu triệu chứng dai dẳng. Khi mà nguyên nhân do tim được loại trừ và không có một nhân khác rõ ràng, bệnh nhân thường đáp ứng với trấn an đơn thuần. Tuy nhiên, một số ít bệnh nhân có triệu chứng nặng, kháng trị và có thể cần chuyên gia để đánh giá những yếu tố tâm lý bệnh dưới và/hoặc điều trị đau mạn tính.
Bài viết cùng chuyên mục
Xét nghiệm Covid-19: hướng dẫn thu thập và xử lý bệnh phẩm
Đối với xét nghiệm chẩn đoán ban đầu với các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 hiện tại, khuyến nghị nên thu thập và xét nghiệm bệnh phẩm đường hô hấp trên.
Khám lâm sàng tình trạng dinh dưỡng
Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân dựa trên chiều cao và cân nặng được diễn giải bằng chỉ số khối cơ thể, là một chỉ số đáng tin cậy hơn về tình trạng béo phì so với các bảng chiều cao cân nặng.
Tim to: phân tích triệu chứng
Tim to là do quá tải áp lực và phì đại cơ của một hoặc nhiều buồng tim, quá tải thể tích với sự giãn nở của các buồng tim hoặc bệnh cơ tim.
Nguyên tắc quản lý đau
Đối với đau liên tục, giảm đau kéo dài cũng có thể được đưa ra xung quanh thời gian với một loại thuốc tác dụng ngắn khi cần thiết để đột phá với đau đớn.
Nhìn đôi: phân tích triệu chứng
Nhìn đôi xảy ra khi cảnh trước mắt dưới dạng hai hình ảnh khác nhau, quá trình lập bản đồ bình thường không thể xảy ra và bộ não cảm nhận được hai hình ảnh chồng lên nhau.
Khó thở mạn tính: thang điểm khó thở và nguyên nhân thường gặp
Khó thở mạn tính được định nghĩa khi tình trạng khó thở kéo dài hơn 2 tuần. Sử dụng thang điểm khó thở MRC (hội đồng nghiên cứu y tế - Medical Research Council) để đánh giá độ nặng của khó thở.
Rụng tóc: đánh giá đặc điểm
Rụng tóc có thể được phân loại theo biểu hiện lâm sàng, nghĩa là, theo việc rụng tóc là cục bộ hay toàn thể, ngoài ra, việc phân loại có thể dựa trên bệnh lý của tình trạng gây rụng tóc.
Đau thắt lưng: khám cột sống thắt lưng
Việc khám nên bắt đầu khi gặp bệnh nhân lần đầu và tiếp tục theo dõi, quan sát dáng đi và tư thế, không nhất quán giữa chức năng và hoạt động có thể phân biệt giữa nguyên nhân thực thể và chức năng đối với các triệu chứng.
Đau ngực từng cơn: những lưu ý lâm sàng trong chẩn đoán
Phải loại trừ thuyên tắc phổi ở bất kỳ bệnh nhân nào có đau kiểu màng phổi cấp tính và không có nguyên nhân nào khác rõ ràng. D-dimer âm tính cùng Wells score < 4 (đủ khả năng loại trừ chẩn đoán này).
Thăm khám bệnh nhân: đã có một chẩn đoán trước đó
Tự chẩn đoán cũng có thể làm chậm trễ trong tìm đến sự giúp đỡ về y tế bởi vì bệnh nhân không đánh giá đúng triệu chứng hay trong tiềm thức của họ không muốn nghĩ đến các bệnh nghiêm trọng.
Lú lẫn mê sảng: đánh giá khi có tổn thương
Khi không chỉ định chụp hình ảnh não, có thể duy trì các biện pháp điều trị trong vài ngày. CT sọ não có thể được chỉ định để loại trừ xuất huyết dưới nhện và những bất thường cấu trúc khác nếu bệnh nhân thất bại điểu trị hoặc nặng hơn.
Viêm da dị ứng (Eczema)
Sần sùi, mảng màu đỏ thường là không dày và phân định ranh giới riêng biệt của bệnh vẩy nến ảnh hưởng đến khuôn mặt, cổ và thân trên
Mụn nước và bọng nước: phân tích triệu chứng
Có nhiều nguyên nhân chúng bao gồm nhiễm herpes simplex, chàm tổ đỉa và viêm da tiếp xúc, các nguyên nhân tự miễn dịch như pemphigoid bọng nước và bệnh ly biểu bì bóng nước.
Phù chân: đánh giá suy thận và chức năng thận
Xác định và điều trị những nguyên nhân, theo dõi chức năng thận và thảo luận với đội chuyên khoa thận nếu như có bất kỳ sự tụt giảm mức lọc cầu thận thêm nữa.
Đau thắt ngực: các bước đánh giá thêm nếu nghi ngờ
Mức độ đau thắt ngực không dựa trên mức đau mà dựa trên tần số triệu chứng, giới hạn khả năng gắng sức hoạt động chức năng. Bởi vì những thông tin này sẽ hướng dẫn điều trị và theo dõi đáp ứng, đánh giá triệu chứng chính xác.
Đánh giá nhồi máu cơ tim không có ST chênh/ đau thắt ngực không ổn định
Phân tầng nguy cơ bệnh nhân bằng thang điểm TIMI hoặc các thang điểm khác. Cho dù bệnh nhân có biến chứng hay đau ngực tiếp diễn, nên theo dõi điện tâm đồ liên tục cho bệnh nhân nguy cơ trung bình.
Biểu hiện toàn thân và đau trong thận tiết niệu
Đau là biểu hiện của căng tạng rỗng (niệu quản, ứ nước tiểu) hoặc căng bao cơ quan (viêm tuyến tiền liệt, viêm thận bể thận).
Đau đầu gối: phân tích triệu chứng
Đau đầu gối có nhiều nguyên nhân như chấn thương cấp tính, lạm dụng, viêm hoặc thoái hóa khớp, nhiễm trùng và các vấn đề khác. Đau quy chiếu từ hông hoặc lưng dưới cũng có thể dẫn đến đau đầu gối.
Khó thở do bệnh phế quản phổi, tim, toàn thân hoặc nguyên nhân khác
Khởi phát nhanh, khó thở nghiêm trọng trong trường hợp không có triệu chứng lâm sàng khác cần nâng cao mối quan tâm đối với tràn khí màng phổi, thuyên tắc phổi
Ho ra máu: phân tích triệu chứng
Bất kể tỷ lệ là bao nhiêu, bước đầu tiên trong đánh giá là phân biệt xem bệnh nhân có ho ra máu thực sự hay chảy máu từ nguồn khác, ví dụ: nôn ra máu hoặc ho giả ra máu.
Tiểu máu: phân tích triệu chứng
Tiểu máu đại thể với sự đổi màu đỏ rõ ràng, lớn hơn 50 tế bào hồng cầu/trường năng lượng cao hoặc tiểu máu vi thể được phát hiện bằng que nhúng sau đó kiểm tra bằng kính hiển vi.
U nang xương: phân tích đặc điểm
U nang xương xuất hiện nhiều hơn trên phim trơn vì chúng có xu hướng ăn mòn xương xung quanh và thường bị tách ra và chứa đầy máu.
Thiếu vitamin D: phân tích triệu chứng
Khi sự hấp thụ canxi ở ruột không cung cấp đủ canxi để duy trì mức canxi máu bình thường, Vit D sẽ ức chế các tế bào tạo xương và kích hoạt các tế bào hủy xương để huy động canxi từ xương.
Tiêu chảy tái phát (mãn tính): phân tích đặc điểm lâm sàng
Tiến hành khám xét đại trực tràng để loại trừ ung thư/bệnh lý ruột viêm nếu bệnh nhân bị tiêu chảy kéo dài kèm theo với bất kỳ dấu hiệu: chảy máu khi thăm khám trực tràng, khối sờ thấy vùng bụng/trực tràng, sụt cân, thiếu máu thiếu sắt.
Lập luận chẩn đoán từ nhiều dấu hiệu và triệu chứng không độc lập
Trong thực tế, nhiều dấu hiệu, triệu chứng và kết quả xét nghiệm thường không độc lập, bởi vì sự hiện diện của một phát hiện làm tăng xác suất xuất hiện của một phát hiện khác.
