Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

2016-12-02 11:49 AM

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Sa trực tràng và loét trực tràng đơn độc

Sa trực tràng không phải là một vấn đề thông thường, đặc biệt ở những người già và có một tiền sử dài bị táo bón và gắng rặn căng thẳng. Các cấu trúc nâng đỡ của vùng trực tràng - hậu môn thường trở nên yếu, dẫn tới lồng trực tràng khi gắng rặn. Biểu hiện sớm của sa trực tràng có thể là loét trực tràng đơn độc - một tình trạng đau với việc sinh loét có vẻ là thứ phát do lông ruột.

Xử trí bao gồm việc mổ để sửa lại hệ thống nâng đỡ bị lỏng lẻo.

Nứt hậu môn

Các nứt hậu môn là rách theo đường thẳng của biểu mô hậu môn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chúng thường tự hết nếu đại tiện được duy trì đều đặn và phân mềm (bằng bổ sung vào chế độ ăn nhiều chất xơ, cám, chế phẩm hạt mã đề bọ chét). Bôi tại chỗ bằng chất làm se da nhẹ như là nitrat bạc 1- 2% hoặc dung dịch thuốc tím gentian 1% có thể có giá trị.

Nứt hậu môn mạn tính có đặc điểm là: (1) đau cấp tính trong khi và sau khi đại tiện; (2) chấm vệt máu đỏ tươi ở phân, đôi khi xuất huyết nhiều hơn; (3) xu hướng gây táo bón do sợ đau; và (4) sự xẩy ra chậm về sau dom (trĩ), ruột nhú phì đại và co thắt của ống hậu môn (thường rất đau khi khám bằng ngón tay). Việc điều chỉnh các thói quen đại tiện bằng sử dụng cám hay chế phẩm hạt mã đề bọ chét (psyllium) trong chế độ ăn hoặc sử dụng các chất làm mềm phân, ngồi ngâm hoặc đặt thuốc đạn hậu môn (như Anusol) hai lần mỗi ngày phải được thử. Nếu các biện pháp hày thất bại, vết nứt, dom trĩ hoặc nhú và hốc tuyến kế cận phải được phẫu thuật cát đi. Chăm sóc sau mổ theo như cách điều trị trước mổ.

Áp xe hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại. Ngồi ngâm nóng có thể làm nhanh quá trình khu trú. Phải báo cho bệnh nhân biết rằng đường rò có thể tiếp tục tồn tại sau khi dẫn lưu áp xe. Sẽ gây đau đớn và vô ích khi tìm lỗ bên trong của đường rò khi đang có nhiễm khuẩn cấp tính. Sự có mặt của áp xe hậu môn phải báo động nhà lâm sàng về khả năng của bệnh viêm ruột, đặc biệt là bệnh Crohn.

Đường rò hậu môn

Khoảng 35% tất cả đường rò hậu môn phát sinh ra ở một hốc tuyến hậu môn, và chúng thường có một áp xe hậu môn đi trước. Nếu một đường rò hậu môn đi vào trực tràng phía trên đường hình lược, và không có bệnh liên kết ở các hốc tuyến, cần phải xem xét chẩn đoán phân biệt viêm ruột kết có hạt, viêm hồi tràng khu vực, lao trực tràng, u lympho hạt hoa liễu, ung thư, hoặc dị vật.

Đường rò cấp tính đi kèm với sự chảy rỉ mủ ra từ lỗ đường rò. Thường có ngứa, tăng cảm giác đau hoặc đau tại chỗ, nặng thêm lên khi đại tiện. Áp xe hậu môn tái phát có thể phát triển. Hốc tuyến đôi khi có thể được định vị bằng nội soi hậu môn với một cái móc hốc. Thông đường rò phải thật nhẹ nhàng vì dễ gây ra đường đi chệch và trong mọi trường hợp, việc chứng minh lỗ trong của đường rò bằng cách đặt ống thông là không cần thiết cho chẩn đoán.

Điều trị thường là phẫu thuật rạch vào hoặc cắt bỏ đường rò có gây mê toàn thân. Nếu một đường rò đi sâu vào vòng hậu môn trực tràng toàn bộ, làm cho tất cả các cơ phải tách rời ra để loại bỏ được đường rò, thì phải tiến hành phẫu thuật làm hai giai đoạn để ngăn ngừa nguy cơ bị mất tự chủ đại tiện.

Bài viết cùng chuyên mục

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).