Táo bón

2016-11-18 09:08 PM

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Táo bón là điều than phiền cực kỳ thông thường. Các bệnh nhân dùng từ này một cách khác nhau để nói đến phân quá rắn nhỏ hoặc hiếm lần đi hoặc căng thẳng thái quá khi đại tiện, vì vậy, bước đầu tiên khi đánh giá bệnh nhân là xác định "táo bón" của người đó có nghĩa là gì. Trong nhân dân nói chung, số lần đi đại tiện được coi là "bình thường" là rộng rãi, đi từ 3 đến 12 lần trong một tuần. Với nhiều bệnh nhân, điều than phiền có thể phản ánh một nhận thức sai lầm về hình thái thải phân bình thường. Từ góc độ y học, có táo bón là khi bệnh nhân đại tiện hai hay ít làn hơn mỗi tuần hoặc quá khó khăn và căng thẳng khi đại tiện. Nhiều nguyên nhân có thể loại như thảo luận dưới đây và tóm tắt trong bảng.

Bảng. Các nguyên nhân gây táo bón ở người lớn

Thông thường nhất

Chế độ ăn ít chất xơ.

Các thói quen đại tiện không tốt.

Các bất thường cấu tạo

Bệnh quanh hậu môn: nứt, áp xe, trĩ nghẽn mạch.

Tổn thương có khối ở ruột kết với tắc ruột ung thư tuyến.

Chỗ nghẽn ờ ruột kết: chứng nhiều túi thừa, chiếu tia xạ, thiếu máu cục bộ.

Bệnh Hirschprung.

Trực tràng to tự phát.

Bệnh toàn thân

Nội tiết: suy giáp trạng, cường cận giáp trạng, đái tháo đường.

Chuyển hóa: giảm kali huyết, tăng calci huyết, tăng urê huyết.

Thần kinh: liệt chi dưới, bệnh Parkinson, xơ cứng tỏa lan, mổ trong khung chậu trước dây gây dứt các dây thần kinh trong hố chậu.

Các loại khác: thoái hóa dạng tinh bột, xơ cứng bì.

Các thuốc

Thuốc ngủ.

Thuốc lơi tiểu.

Các thuốc chặn kênh calci.

Các thuốc kháng tiết cholin.

Các tác nhân hướng tâm thần.

Các thuốc kháng acid.

Chuyển qua ruột kết chậm

Tự phát: chí riêng biệt ở ruột kết hoặc một phần của rối loạn toàn thể.

Do căn nguyên tâm lý.

Giả tắc ruột mạn tính.

Thoát ra chậm

Túi phình trực tràng.

Lồng trực tràng.

Sa trực tràng.

Sa dáy chậu.

Hậu môn không giãn.

Các nguyên nhân táo bón có thể xác định được

Có thói quen ăn uống và hành vi không tốt

Đa số trội hơn hẳn các bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ không thể quy cho bất kỳ bệnh nào về cấu tạo, về các rối loạn di động của ruột hoặc bệnh toàn thân. Việc xem xét lại kỹ lưỡng về chế độ ăn sẽ bộc lộ rằng phần lớn các bệnh nhân này không ăn uống đủ chất xơ và chất lỏng. Việc ăn 10 - 12g chất xơ hàng ngày hoặc bằng những thay đổi chế độ ăn hoặc thêm vào hoặc bổ sung chất xơ mua sẵn thường là điều cần làm. Ít nhất trong bữa ăn phải uống một hay hai cốc chất lỏng. Phải khuyến khích bệnh nhân chú ý đến "sự kêu gọi đại tiện" thường xẩy ra một cách điển hình sau bữa ăn (phản xạ dạ dày - ruột kết). Đặc biệt những người già dễ bị táo bón do các thói quen ăn uống không tốt, một loạt các thuốc men gây táo bón, giảm tính di động ruột kết và trong một số trường hợp, không có khả năng ngồi trên bệ xí (các bệnh nhân nằm liệt giường).

Các bất thường cấu tạo

Các tổn thương ruột kết làm tắc đường đi của phân phải được loại trừ ở bệnh nhân bị táo bón. Sự quan tâm đặc biệt được nâng cao đối với các bệnh nhân bị táo bón suốt đời (bệnh Hirschprung) và các bệnh nhân trên 50 tuổi với chứng táo bón mới bắt đầu, phân bị nhỏ dần đi hoặc liên quan với sụt cân hoặc phân có máu tươi.

Các bệnh toàn thân

Các bệnh nội khoa có thể gây táo bón do rối loạn chức năng thần kinh ruột, các rối loạn nội tiết và các bất thường về các chất điện giải.

Những nguyên nhân gây táo bón nặng hoặc dai dẳng

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn. Về mặt khái niệm có thể chia các bệnh nhân này thành hai loại.

Sự trì trệ của ruột kết

Một số bệnh nhân có sự vận chuyển trì hoãn tự phát của phân qua ruột kết. Quá cảnh ruột kết bình thường cần thời gian xấp xỉ 35 giờ; nếu trên 72 giờ là sự bất thường có ý nghĩa. Sự trì trệ nặng ở ruột kết thường gặp hơn ở phụ nữ, một số trong họ có tiền sử có các vấn đề tâm lý - xã hội hoặc lạm dụng tình dục. Sự trì trệ ruột kết có thể là một bộ phận của hội chứng rối loạn di động dạ dày - ruột rộng rãi hơn. Nó cũng có thể được quy cho nhiều năm lạm dụng thuốc tẩy nhẹ ("ruột kết nghiện thuốc tẩy").

Các rối loạn đường ra

Các bệnh nhân bị rối loạn trực tràng và sàn hố chậu có thể gặp khó khăn trong chuyển vận phân ra khỏi trực tràng. Họ có thể than phiền là quá căng thẳng với cảm giác không tháo đi hoàn toàn được, cần phải dùng ngón tay ấn vào âm đạo hoặc đáy chậu, hoặc thậm chí phải lấy tay móc chỗ chèn chặt. Phần lớn các bệnh nhân này là phụ nữ. Các khó khăn đại tiện có thể là do nhiều vấn đề giải phẫu học, cản trở hoặc làm tắc dòng đi, một số vấn đề này có thể nhờ phẫu thuật giải quyết, ở các bệnh nhân khác, sàn hố chậu không thư giãn được khi rặn đại tiện ("không giãn hậu môn"); có thể điều trị chứng này bằng các bài tập thư giãn và rèn luyện thông tin phản hồi sinh học.

Đánh giá

Điều tra bước đầu

Tất cả bệnh nhân phải được khai thác bệnh sử chu đáo và thăm khám thực thể, kể cả thử nghiệm phân tìm máu kín đáo. Các nghiên cứu labô thường bao gồm đếm máu toàn bộ, xét nghiệm các điện giải bao gồm calci và hormon kích thích tuyến giáp trong huyết thanh (TSH). Đối với các bệnh nhân bề ngoài là khỏe mạnh với các triệu chứng nhẹ và ở tuổi dưới 50, việc thử điều trị bảo tồn với chất xơ là hợp lý. Đối với các bệnh nhân trên 50 tuổi, những người đã không đạt hiệu quả với điều trị bảo tồn, hoặc những người bị thiếu máu hoặc có máu kín đáo trong phân, nội soi đại tràng sigma bằng ống mềm và thụt barit hoặc nội soi ruột kết được thực hiện để tìm các tổn thương cấu tạo ruột kết. Các bệnh nhân rõ ràng không có bệnh trong cấu tạo, nội khoa hoặc thần kinh có khi bước đầu điều trị bằng cách bổ sung chất xơ (và các thuốc nhuận tràng thẩm thấu nếu cần).

Điều tra bước hai

Các bệnh nhân táo bón dai dẳng không đáp ứng với các biện pháp bảo tồn có thể cân phải điều tra thêm.

(1) Nghiên cứu chuyển vận ruột kết. Để xác định rằng bệnh nhân thật sự táo bón và đo lượng thời gian quá cảnh, cho bệnh nhân nuốt 24 mảnh chất dẻo đánh dấu cản quang trong 3 ngày. Chụp X quang bụng vào ngày thứ 4 và thứ 7 và đếm toàn bộp số mảnh đánh dấu còn lại trong ruột kết.

(2) Các nghiên cứu về chức năng sàn hố chậu. Để chẩn đoán các rối loạn đường ra của trực trạng - hậu môn, quay băng đại tiện đồ (nghiên cứu video lấy được trong lúc rặn và đại tiện) và đo áp lực hậu môn là hữu ích. Tuy nhiên các nghiên cứu này không sẵn có rộng rãi để làm.

Điều trị thông thường bệnh táo bón mạn tính

Các biện pháp ăn uống

Phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ăn uống đầy đủ chất lỏng và chất xơ. Có thể cho chất xơ qua việc thay đổi chế độ ăn hoặc qua bổ sung chất xơ. Chất xơ trong ăn uống tăng lên có thể gây nên chướng bụng và đầy hơi tạm thời trong một số trường hợp. Cần phải nhấn mạnh rằng tuy chất xơ có ích cho phần lớn các bệnh nhân táo bón, nó thường không co ích cho các bệnh nhân bị trì trệ ruột kết hoặc các rối loạn đường ra. Các loại bổ sung chất xơ bao gồm:

(1) Bột cám. Một đến hai thìa canh bột cám hai lần mỗi ngày trộn vào các chất lỏng hoặc rắc trên các thức ăn là một phương tiện rất tốt và không tốn kém để cung cấp 10 - 20g/ngày chất xơ.

(2) Các loại bổ sung dược liệu. Nhiều loại bổ sung chất xơ là dạng thuốc, tuy nhiên, chúng đắt tiền hơn nhiều so với bột cám. Chúng sẵn có trong nhiều loại bột có hương vị, bánh quy hoậc viên dễ ăn uống, hấp dẫn đối với bệnh nhân. Hơn nữa chúng có thể kém gây đầy hơi hơn cám đối vâi một số bệnh nhân. Các chế phẩm bao gồm psyllium 3,4g và methylcelulose 2g, một đến ba lần mỗi ngày (cả hai đều là các chất xơ lấy từ chất rau); và polycarbophil 1g một đến bốn lần hàng ngày (chất xơ tổng hợp).

Các thuốc nhuận tràng thẩm thấu

Các tác nhân này có thể dùng để làm mềm phân. Có thể cho dùng riêng hoặc phối hợp với các loại bổ sung chất xơ. Chúng thường được dùng cho các bệnh nhân già không tự đi lại được hoặc các bệnh nhân ở một cơ sở từ thiện (cứu tế, dưỡng lão) để dự phòng táo bón và phân chèn chặt. Có thể dùng chúng dài hạn và không gây sự phụ thuộc (tình trạng nghiện). Các tác nhân được chuẩn độ một cách đặc trưng ở một liều có tác dụng làm phân mềm hoặc nửa lỏng.

(1) Các chất đường không hấp thu được. Lactulose hoặc sorbitol, 15 - 60mL hàng ngằy đều có hiệu quả như nhau. Các chất đường không hấp thụ được này có thể làm bụng căng, chuột rút và đầy hơi.

(2) Magnesi hydoxid. Thường được cho liều 15 - 30mL hàng ngày. Không được dùng cho các bệnh nhân suy thận.

Các tác nhân thấm ướt phân

Các tác nhân thấm ướt làm trơn phân (docusat natri, 50 - 200mg/ngày) có thể cho uống hoặc đặt vào trực tràng để tăng cường làm mềm phân.

Điều trị táo bón mạn tính hoặc dai dẳng

Phần lớn các bệnh nhân thuộc loại này sẽ được chuyển đến một trung tâm chuyên môn quan tâm và có trình độ tinh thông về các vấn đề khó khăn này.

Sự trì trệ của ruột kết

Nhiều bệnh nhân cần sử dụng lâu dài thụt tháo và các tác nhân nhuận tràng. Các bệnh nhân với các vấn đề tâm lý hoặc có tiền sử bị lạm dụng tình dục có thể được trị liệu tâm thần. Trong những trường hợp đặc biệt nặng, có thể cần phải cắt bỏ một phần ruột kết.

Các rối loạn đường ra

Một số vấn đề giải phẫu (như sa trực tràng, trực tràng túi thông âm đạo) có thể được sửa chữa bằng phẫu thuật. Các kỹ thuật thư giãn và thông tin phản hồi sinh học hiện đang được sử dụng cho các bệnh nhân bị rối loạn chức năng sàn hố chậụ.

Điều trị táo bón cấp tính

Những người bình thường và các bệnh nhân táo bón mạn tính có thể bị táo bón cấp tính do đáp ứng với bệnh nội khoa hoặc ngoại khoa cấp tính, các thay đổi ăn uống, dùng thuốc, chuyến đi dài ngày v.v... Nếu đã qua nhiều ngày từ lần đại tiện gần đây nhất, các liệu pháp được mô tả ở trên đối với táo bón mạn tính sẽ không đầy đủ để gây ra sự thoát phân nhanh chóng và làm giảm khó chịu. Trong các trường hợp này có thể cho các tác nhân sau đây (thận trọng không được dùng các tác nhân này cho các bệnh nhân có khả năng bị tắc ruột kết hoặc chèn chặt phân)

Thuốc tẩy nhuận tràng

Các nhân tố này kích thích bài tiết chất lỏng và co bóp ruột kết, đưa đến đại tiện trong 6 - 12 giờ sau khi uống vào hoặc 15 - 60 phút sau khi đặt trực tràng. Chúng có thể gây đau thắt và tiêu chảy. Các tác nhân dùng ở điều kiện chữa bệnh bao gồm cascara sagrada (vỏ cây) 4 - 8ml uống; bisacodyl 5 - 15 mg uống hoặc 10 mg thuốc đặt trực tràng; và dầu thầu dầu 15 - 45ml, uống. Lá cây keo và phenolphtalein là những thuốc tẩy uống, qua da, thường không được chỉ định. Ghi chú: Dùng lâu dài bất kỳ tác nhân nào thuộc loại này có thể đưa đến mất chức năng bình thường cơ - thần kinh của ruột kết.

Thuốc thẩm thấu nhuận tràng

Các thuốc nhuận tràng thẩm thấu làm thoát phân nhanh trong 1/2 - 3 giờ, thường là dễ chịu hơn khi cho các thuốc nhuận tràng tẩy xổ. Chúng được dùng trong mục đích y tế để tẩy trước khi mổ hoặc thăm khám ruột kết. Các chế phẩm bao gồm magnesi citrat, 18g/10 ao-xơ; magnesi sulfat 10 - 30g "muối Epsom"; natri phosphat 10 - 30g (2 - 45mL); dung dịch rửa ruột cân bằng polyethylen glycol, 1 - 4 L trong 1-4 giờ (Go LYTELY, CoLyte).

Thụt

Việc thụt cung cấp một phương tiện đơn giản và hầu như tức khắc làm giảm nhẹ táo bón cấp tính. Trong những trường hợp táo bón nặng, tốt nhất là làm thụt tháo đầu tiên để làm cho đại tiện dễ chịu trước khi cho thuốc nhuận tràng. Các loại thụt khác nhau về cỡ và thành phần thụt: nước muối 120 - 240mL (không kích thích); thụt nước ở vòi nước máy 500 - 1000 mL (gây kích thích); và thụt dầu 120 mL (có ích cho việc tháo phân rắn hoặc nén chặt).

Điều trị nén chặt phân

Sự nén chặt phân nặng ở vòm trực tràng có thể đưa tới tắc dòng phân đi tiếp, dẫn tới tắc ruột kết một phần hoặc toàn bộ. Các nhân tố dẫn dắt bao gồm bệnh tâm thần nặng, nằm tại giưòng kéo dài và suy nhược. Biểu hiện lâm sàng bao gồm giảm ăn ngon miệng, buôn nôn, nôn, đau và căng chướng bụng. Có thể xẩy ra "tiêu chảy" nghịch lý vì phân lỏng rỉ xung quanh phân bị nén chặt. Có thể sờ thấy phân chắc khi thăm bằng ngón tay ở vòm trực tràng. Điều trị ban đầu hướng về làm giảm nén chặt bằng cách thụt hoặc dùng ngón tay làm vỡ chất phân nén chặt. Phải thận trọng không làm tổn thương cơ thắt hậu môn. Hiếm khi cần phải gây mê tủy sống hoặc toàn thân để hỗ trợ cho việc dùng ngón tay làm vỡ khối phân nén chặt. Việc chăm sóc dài hạn hướng về duy trì phân mềm và đại tiện đều đặn.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.