Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

2016-11-21 10:50 AM

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Thường có đại tiện ra máu tươi.

10% các trường hợp đại tiện ra máu tươi do nguồn từ đường dạ dày ruột trên.

Đánh giá bằng nội soi ruột kết ở các bệnh nhân ổn định.

Xuất huyết ồ ạt hoạt động đòi hỏi đánh giá bằng nội soi đại tràng sigma, chụp X quang mạch máu hoặc nội soi cắt lớp hạt nhân.

Các cân nhắc chung

Xuất huyết đường dạ dày - ruột dưới được định nghĩa là xuất huyết phát sinh dưới dây chằng Treitz, tức là từ ruột non hoặc ruột kết. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp phát sinh từ ruột kết và đặc biệt là vùng hậu môn - trực tràng. Xuất huyết phát sinh từ phần trên của ruột non có thể biểu hiện đại tiện máu đen. Song phần lớn các bệnh nhân xuất huyết đường tiêu hóa dưới biểu hiện đại tiện máu tươi (máu đỏ tươi qua trực tràng). Độ nặng của xuất huyết có thể đi từ các vệt máu đỏ nhận thấy trong phân tới đại tiện máu tươi nhiều, khối lượng lớn. Báo cáo về máu đỏ tươi rỏ giọt trên bệ xí sau đại tiện hoặc thành vệt hoặc lẫn với phân rắn chắc làm nghĩ tới nguồn hậu môn - trực tràng. Ít nhất 50% các trường hợp đại tiện máu tươi phát sinh từ các bệnh của vùng này. Ngược lại, phân có lượng máu lớn có thể phát sinh bất kỳ từ nơi nào của đường tiêu hóa dưới. Phải công nhận ràng gần 10% số bệnh nhân đại tiện máu tươi có nguồn xuất huyết đường dạ dày - ruột trên (như loét tiêu hóa); rửa dạ dày "âm tính" không loại trừ hẳn nguồn từ đường tiêu hóa trên.

Nguyên nhân

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết. Ở các bệnh nhân dưới 50 tuổi, các nguyên nhân thông thường nhất là viêm ruột kết nhiễm khuẩn, bệnh hậu món - trực tràng, bệnh viêm ruột, ở các bệnh nhân lớn tuổi hơn, đại tiện máu tươi hay gặp nhất do bệnh túi thừa, giãn mạch, ung thư hoặc thiếu máu cục bộ.

Bệnh túi thừa

Đây là nguyên nhân thường gặp nhất gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới nặng, tính ra đến 40% các trường hợp. Nó thường biểu hiện là cấp tính, không đau, đại tiện máu nâu sẫm hoặc đỏ tươi, khối lượng lớn ở các bệnh nhân trên 50 tuổi. Xuất huyết thuyên giảm tự phát trong 80%. Mặc dù phần lớn các túi thừa nằm ở ruột kết trái nhưng phần lớn xuất huyết túi thừa lại xảy ra ở ruột kết phải.

Giãn mạch

Giãn mạch (hoặc loạn sản mạch) có thể gây ra xuất huyết không đau, từ đại tiện máu tươi cấp tính đến mất máu kín đáo mạn tính. Xuất huyết từ các chỗ giãn mạch thường thấy nhất ở các bệnh nhân trên 70 tuổi hoặc các bệnh nhân suy thận mạn tính. Chúng thường có vị trí ở ruột kết phải nhưng xẩy ra khắp đường dạ dày - ruột trên và dưới.

Khối u

Các khối u lành tính và ác tính thường hay biểu lộ sự mất máu kín đáo, mạn tính nhưng đôi khi biểu lộ phân có máu tươi không liên tục và hiếm thấy xuất huyết đường tiêu hóa dưới ồ ạt.

Bệnh hậu môn - trực tràng

Bệnh hậu môn - trực tràng thương dẫn đến các lượng nhỏ máu đỏ tươi thẩm vào giấy vệ sinh, có vệt máu trên phân hoặc nhỏ giọt vào bệ xí. Chảy máu thường nhẹ và hiếm khi đưa tới mất máu lớn. Xuất huyết không đau thường do trĩ nội gây ra. Xuất huyết kèm theo đau khi đại tiện thường do nứt hậu ínôn gây ra.

Bệnh ruột do viêm

Các bệnh nhân có bệnh ruột do viêm (nhất là viêm ruột kết loết) thường có tiêu chảy với lượng phân có máu tươi khác nhau. Xuất huyết có thể thay đổi từ mất máu kín đáo tới đại tiện máu tươi tái phảt thường lẫn với phân. Các triệu chứng đàu bụng, buốt mót và thúc bách đại tiện thường xẩy ra.

Viêm ruột kết do thiểu máu cục bộ

Thể này được thấy ở những bệnh nhân già, phần lớn họ đã bị mắc bệnh xơ vữa động mạch. Thiếu máu cục bộ cấp tính đưa tới đại tiện ra máu tươi hoặc tiêu chảy có máu, điển hình là kèm theo co thắt nhẹ. Trong phần lớn các trường hợp, xuất huyết nhẹ và hạn định.

Các nguyên nhân khác

Viêm ruột kết do chiếu xạ gây ra có thể dẫn đến xuất huyết ruột xẩy ra nhiều năm sau. Viêm ruột kết nhiễm khuẩn cấp tính do Shigella, Campylobacter và E coli tiết độc tố xuất huyết ruột (xem tiêu chảy cấp tính) thường gây tiêu chảy có máu. Ở trẻ em, phải cân nhắc đến túi thừa Meckel và lồng ruột. Các nguyên nhân hiếm gây xuất huyết đường dạ dày ruột dưới bao gồm viêm mạch máu, hội chứng loét trực tràng đơn độc, các túi thừa ruột non, và các giãn tĩnh mạch ruột kết.

Đánh giá và xử lý

Phải đánh giá trọng lượng của bệnh nhân và tiến hành hòi sức với các dung dịch và sản phẩm máu theo sự cần thiết (xem xuất huyết đường dạ dày - ruột trên cấp tính). Phải thực hiện hỏi bệnh sử chu đáo và thăm khám thực thể. Xuất huyết khối lượng lớn không đau làm nghĩ đến xuất huyết túi thừa, giãn mạch, hoặc một nguồn ở đường tiêu hóa trên. Tiêu chảy có máu thường xuyên với buốt mót và thúc bách có thể gợi ý bệnh ruột do viêm, hoặc viêm ruột kết nhiễm khuẩn. Các nghiên cứu thêm về xuất huyết đường tiêu hóa dưới được quyết định do độ nặng của xuất huyết và nó đang hoạt động hay thuyên giảm.

Loại trừ nguồn ở đường tiêu hóa trên

Đặt ống thông đường mũi - dạ dày và rửa dạ dày phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân đại tiện máu tươi nhiều hoặc khá nhiều để tìm bằng chứng về nguồn xuất huyết đường tiêu hóa trên. Nếu không nhìn thấy máu và hút ra mật thì ít khả năng là nguồn ở trên. Trái lại, nếu thấy máu hoặc không thấy máu nhưng không hút ra mật, phải thực hiện nội soi phía trên một cách khẩn cấp để loại trừ nguồn xuất huyết ở đường tiêu hóa trên.

Nội soi hậu môn và nội soi dại tràng sigma

Đối với các bệnh nhân bề ngoài khoẻ mạnh, dưới 50 tuổi bị xuất huyết khối lượng nhỏ, nội soi hậu môn và đại tràng sigma được thực hiện để tìm bằng chứng về bệnh hậu môn - trực tràng, bệnh ruột do viêm, hoặc viêm ruột kết nhiễm khuẩn. Nếu thấy có khả năng là nguồn xuất huyết thì không cần phải đánh giá thêm ngay lập tức trừ khi xuất huyết dai dẳng hoặc tái phát. Ở các bệnh nhân trên tuổi 50 với đại tiện máu tươi khối lượng nhỏ, phải đánh giá toàn bộ ruột kết hoặc bàng nội soi ruột kết hoặc nội soi đại tràng sigma và thụt barit để loại trừ một quá trình tân sản.

Nội soi ruột kết

Nội soi ruột kết khẩn cấp phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân bị xuất huyết đáng kể đường tiêu hóa dưới, (tức là xuất huyết kèm theo hematocrit hạ thấp) khi xuất huyết đã giảm hoặc chậm lại (cần cho dưới 2 đơn vị khối lượng hồng cầu trong 24 giờ). Thường thực hiện nội soi ruột kết khoảng 6 - 24 giờ sau khi bệnh nhân vào viện, khi đã làm sạch ruột kết bằng một dung dịch tiêu chuẩn rửa ruột bằng đường uống. Có thể xác định được nguồn chảy máu trong hơn 80% các trường hợp, tuy nhiên thường không thấy được chảy máu đang hoạt động khi xác định được các túi thừa hoặc giãn phình mạch không chảy máu, không lấy gì làm chắc chắn chúng là nguồn gây xuất huyết.

Chụp X quang mạch máu hoặc cắt lớp hạt nhân

Sự có mặt của xuất huyết lớn không ngừng (> 2 đơn vị khối lượng hồng cầu được truyền trong 24 giờ) hạn chế tính hữu ích của thăm khám nội soi ruột kết. Ở các bệnh nhân này, phẫu thuật có thể trở thành cần thiết để làm ngừng chảy máu.

Vì vậy, điều có ích là xác định được vị trí xuất huyết để chỉ đạo phương pháp phẫu thuật. Không may là các nghiên cứu này thường là không chẩn đoán được, hoặc do xuất huyết không liên tục hoặc do xuất huyết quá chậm. Nội soi cắt lớp hồng cầu đánh dấu 99mTC có thể phát hiện được trường hợp xuất huyết đòi hỏi ít nhất dùng 2 đến 3 đơn vị khối lượng hồng cầu trong 24 giờ và có thể định vị một cách thô sơ vị trí xuất huyết ở ruột non hoặc ở ruột kết phải hoặc trái. Chụp X quang mạch máu mạc treo chọn lọc cần khi có xuất huyết rõ rệt hơn (> 60 mL/giờ hoặc xuất huyết đòi hỏi 4 đơn vị trong 24 giờ), nhưng khi dương tính, nó có thể xác định một cách cụ thể mạch máu xuất huyết. Nếu thực hiện được thì trong phàn lớn các trường hợp, nó được ưa thích hơn các nghiên cứu hạt nhân.

Điều trị

Điều trị hướng về tổn thương căn bản. Các nguyên tắc chung sau đây được áp dụng:

Ngừng dùng aspirín và các thuốc chống viêm không phải steroid

Trên 80% các bệnh nhân bị xuất huyết đường tiêu hóa dưới có bằng chứng về việc uống aspirin, hoặc các thuốc kháng viêm không steroid gần đây. Các tác nhân này có khả năng gây xuất huyết do ức chế chức năng tiểu cầu.

Nội soi ruột kết điều trị

Các kỹ thuật gây đông máu bằng nội soi đông điện (que thông nhiệt, đốt điện hai cực, làm đông bằng laser) có thể có ích lợi trong điều trị giãn mạch ở ruột kết.

Vasopressin nội động mạch hoặc làm tắc mạch

Ở chụp X quang mạch máu, việc truyền nội động mạch vasopressin 0,2 đơn vị/phút, có thể làm ngừng xuất huyết tới 90% bệnh nhân đang xuất huyết từ túi thừa hoặc giãn mạch. Làm tắc mạch có thể được sử dụng cho các bệnh nhân xuất huyết tiếp tục, họ là những người kém thích hợp với phẫu thuật nhưng liên quan với nhồi máu ruột trong 15% các trường hợp.

Phẫu thuật

Bản chất của điều trị ngoại khoa phụ thuộc vào bản chất và vị trí củá nguồn xuất huyết. Phẫu thuật thường được chỉ định cho những bệnh nhân có xuất huyết túi thừa tái phát hay dai dẳng hoặc xuất huyết cầu truyền máu do giãn mạch. Cắt ruột kết một nửa bên phải hoặc cắt ruột kết một phần có thể là cần thiết trong các trường hợp này.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.