Đánh giá các rối loạn thực quản

2016-11-21 01:17 PM

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các triệu chứng

Tiền sử lâm sàng là cực kỳ quan trọng trong chẩn đoán bệnh thực quản, ợ nóng, khó nuốt và nuốt đau trên thực tế luôn chứng tỏ rối loạn thực quản tiên phát.

Ợ nóng

Ợ nóng là cảm giác nóng bỏng sau xương ức thường lan lên cổ. Do sự chảy ngược dòng của chất acid (hoặc kiềm, hiếm hơn) vào thực quản, ợ nóng là đặc trưng cho bệnh trào ngược dạ dày - thực quản.

Khó nuốt

Các khó khăn về nuốt có thể phát sinh từ các vấn đề vận chuyển khối thức ăn từ miệng họng tới phần trên của thực quản (khó nuốt miệng - họng) hoặc từ sự vận chuyển trục trặc khối thức ăn qua đường thực quản (khó nuốt thực qụản). Một bệnh sử chu đáo thường đưa đến chẩn đoán đúng.

(1) Khó nuốt miệng - họng

Giai đoạn miệng - họng của hoạt động nuốt là một qúa trình phức tạp đòi hỏi nâng cao lưỡi, đọng khoang mũị - họng, giãn cơ thắt trên của thực quản, đóng đường thở và nhu động của họng. Một trung tâm nuốt ở thân não hành tủy hợp nhất các dây thần kinh sọ số V, VII, IX, X và XII. Nhiều bệnh trạng cơ học và thần kinh - cơ có thể phá vỡ quá trình này. Khó nuốt miệng - họng có đặc điểm là ho, nghẹn và ợ thức ăn xẩy ra ngay khi bắt đầu nuốt. Các chất lỏng khó nuốt hơn thức ăn mềm. Có thể kèm theo chứng khó phát âm, chứng nói khó hoặc những triệu chứng thần kinh khác.

(2) Khó nuốt thực quản

Khó nuốt thực quản có thể do nguyên nhân là tổn thương cơ học gây tắc thực quản hoặc các rối loạn tính di động.

Bảng. Các nguyên nhân khó nuốt miệng - họng

Các rối loạn thần kinh

Tai biến mạch máu não ở thân não, tổn thương cả khối.

Liệt giả hành não.

Xơ cứng bên teo cơ, xơ cứng lan tỏa, bại liệt.

Nhươc cơ nặng.

Các rối loạn cơ

Loạn dưõng cơ tiến triển (bệnh cơ), viêm đa cơ.

Suy giáp trạng.

Các rối loạn tính di động

Rối loạn chức năng cơ thắt trên của thực quản.

Các khuyết tật cấu tạo.

Túi thừa Zenker.

Ung thư, phẫu thuật, chiếu xạ vùng miệng họng.

Bảng. Các nguyên nhân khó nuốt thực quản

Nguyên nhân

Các đầu mối

Tắc cơ học  

Vòng đai Schatzki.

Chỗ chít hẹp tiêu hóa.

Ung thư thực quản.

Các thức ăn rắn chắc khó nuốt hơn các chất lỏng

Khó nuốt không liên tục; không tiến triển.

Ợ nóng mạn tính; khó nuốt tiến triển.

Khó nuốt tiến triển; tuổi trên 50.

Rối loạn tính di động

Co thắt thực quản

Co thắt thực quận lan tỏa

Xơ cứng bì

Các thức ăn rắn và chất lỏng

Khó nuốt tiến triển.

Không liên tục; không tiến triển; có thể đau ngực.

Ợ nóng mạnh tính; hiện tượng Raynaud.

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại. Các bệnh nhân bị rối loạn tính vận động thấy khó nuốt cho cả các chất đặc và chất lỏng. Khó nuốt từng cơn, không đoán trước được, không tiến triển hoặc tiến triển ở tốc độ chậm.

Nuốt đau

Nuốt đau là đau nhói đột ngột sau xương ức khi nuốt làm hạn chế việc ăn uống. Nó thường phản ánh bệnh ăn mòn nặng, nó thường kết hợp nhất với viêm thực quản nhiễm khuẩn do Candida, virus herpes, hoặc cytomegalovirus, đặc biệt ở các bệnh nhân bị tổn hại miễn dịch. Nó cũng có thể do tổn thương ăn mòn vì chất ăn da trong thức ăn và ổ loét do thuốc uống gây ra.

Chẩn đoán

Nội soi phần trên

Nội soi là cách nghiên cứu tốt nhất đánh giá ợ nóng dai dẳng, nuốt đau và các bất thường về cấu tạo mà chụp thực quản với barit đã phát hiện. Ngoài việc nhìn thấy trực tiếp, nó còn giúp làm sinh thiết những bất thường ở niêm mạc và nong chỗ chẹt.

Quay video thực quản

Khó nuốt miệng họng được đánh giá tốt nhất bằng sự nối tiếp nhanh chụp video thực quản do chuyên gia X quang hoặc bệnh học ngôn ngữ có kinh nghiệm thực hiện.

Chụp thực quản với barit

Các bệnh nhân bị khó nuốt thực quản được đánh giá trước tiêu bằng nghiên cứu chụp X quang với barit để phân biệt giữa các tổn thương cơ học và các rối loạn tính di động của thực quản. Nó cung cấp thông tin có giới hạn về tính di động của thực quản, ở các bệnh nhân có nghi ngờ nhiều về tổn thương cơ học, nhiều nhà lâm sàng sẽ tiến hành đánh giá nội soi không nghiên cứu với barit.

Đo áp lực thực quản

Tính di động thực quản đựợc nghiên cứu tốt nhất bằng các kỹ thuật đo áp lực. Một ống thông nhỏ đo áp lực được đưa qua mũi vào thực quản, cho phép đo áp lực các cơ thắt thực quản trên và dưới, và thân thực quản. Đó là nghiên cứu tốt nhất để đánh giá sự khó nuốt ở các bệnh nhân mà nội soi hoặc nghiên cứu barit đã loại trừ tắc cơ học,

Theo dõi pH thực quản lưu động

pH thực quản có thể được theo dõi liên tục bàng một ống có đầu dò pH nhỏ đứa qua mũi và gắn với một dụng cụ ghi pH xách tay. Ống thông và dụng cụ ghi được bệnh nhân mang theo cả ngày đêm. Có thể phân tích các số ghi để xác định lượng acid chảy ngược dạ dày - thực quản và để xem các triệu chứng của bệnh nhân có liên quan với lượng chảy ngược được ghi lại hay không.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.