Hội chứng ruột kích ứng

2016-11-25 01:56 PM

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Rối loạn chức năng mạn tính với đặc điểm là đau bụng, biến đổi về thói quen đại tiện.

Đánh giá hạn định để loại trừ các nguyên nhân hữu cơ của các triệu chứng.

Các nhận định chung

Các rối loạn chức năng dạ dày - ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học. Nhiều thực thể lâm sàng được bao gồm dưới đề mục rộng lớn này, bao gồm cả đau lồng ngực không có nguồn gốc rõ ràng (đau thắt ngực không do tim), khó tiêu không do loét, và rối loạn vận động mật (rối loạn chức năng cơ thát Oddi). Có một sự chồng chéo lớn giữa các thực thể này. Ví dụ, trên một nửa số bệnh nhân đau ngực không do tim và trên một phần ba số bệnh nhân khó tiêu không do loét cùng có các triệu chứng tương hợp với hội, chứng ruột kích ứng. Không có một quá trình hoặc test để chẩn đoán dứt khoát trong tất cả những trường hợp này. Mặt khác, chẩn đoán là chủ quan dựa trên sự có mặt của một mô tả đại cương và sự loại trừ các rối loạn "hữu cơ" khác.

Do đó thuật ngữ hội chứng ruột kích ứng có thể được định nghĩa là một thực thể lâm sàng có đặc điểm là sự kết hợp nào đó của các triệu chứng mạn tính bao gồm như sau: (1) đau bụng, (2) số lần đại tiện và đậm độ phân biến đổi hoặc thay đổi thất thường, (3) căng trướng bụng và (4) các mức độ thay đổi về lo âu và phiền muộn. Nhóm các triệu chứng này cũng có thể gọi là "viêm ruột kết co cứng" hoặc "viêm ruột kết nhầy". Các bệnh nhân cũng có thể có những than vãn về chức năng khác như là khó tiêu, ợ nóng, đau ngực, mệt mỏi, rối loạn tiết niệu và các vấn đề phụ khoa.

Hội chứng ruột kích ứng cũng là cực kỳ thông thường. Có tới 20% dân số người lớn có các triệu chứng tương ứng với chẩn đoán nhưng phần lớn không hề tìm đến sự quan tâm y tế. Đây là một vấn đề cực kỳ thông thường cho cả thầy thuốc chăm sóc ban đầu và nhà chuyên khoa dạ dày - ruột.

Bệnh sinh

Hội chứng ruột kích ứng chắc chắn đại diện cho một biểu hiện lâm sàng thông thường của một nhóm hỗn tạp nhiều rối loạn. Một số các cơ chế sinh lý bệnh đã được xác định và có thể có tầm quan trọng khác nhau giữa các cá nhân khác nhau.

Tính di động bất thường

Một loạt các bất thường điện cơ và vận động đã được xác định ở ruột kết và ruột non. Trong một số trường hợp, các bất thường này có tương quan tạm thời với các đợt đau bụng hoặc stress cảm xúc. Điều bàn cãi là chúng biểu thị rối loạn tính di động nguyên phát hay thứ phát của stress tâm lý - xã hội. Các sự khác biệt giữa các bệnh nhân với các triệu chứng ưu thế táo bón và ưu thế tiêu chảy đã được báo cáo.

Sự nhận cảm tổn thương của nội tạng tăng cao

Bệnh nhân thường có ngưỡng đau của nội tạng thấp hơn, than phiền đau bụng khi trạng thái đầy hơi ở ruột kết, hoặc bơm phồng ruột kết như quả bóng ở các khối lượng thấp hơn so với nhóm đối chứng. Mặc dù nhiều bệnh nhân than phiền về bụng bị trướng và căng, các nghiên cứu loại bỏ đã cho thấy rằng khối lượng hơi tuyệt đối trong ruột là bình thường. Nhiều bệnh nhân than phiền có sự thúc bách đại tiện ở trực tràng mặc dù khối lượng phân nhỏ ở trực tràng.

Các bất thường tâm lý - xã hội

Hơn một nửa số bệnh nhân với ruột kích ứng tìm đến sự quan tâm y tế với tâm sự phiền muộn, lo âu, hoặc thể hóa các ý nghĩ. Ngược lại, những người không tìm đến y tế có tâm lý tương tự như những người bình thường. Các bất thường tâm lý có thể ảnh hưởng đến cách người bệnh cảm nhận hoặc phải ứng với đau yếu hoặc các cảm giác nội tạng thứ yếu.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Ruột kích ứng là một bệnh mạn tính, suốt đời. Các triệu chứng, thường bắt đầu từ những năm mười bẩy, mười tám tuổi đến hết các năm của lứa tuổi hai mươi (20 - 29 tuổi). Các triệu chứng đã xuất hiện ít nhất là 3 - 6 tháng trước khi được xem xét chẩn đoán. Chẩn đoán được xác lập khi có những triệu chứng tương hợp và sau khi loại bỏ bệnh thực thể. Mặc dù các bệnh nhân kể ra nhiều triệu chứng, đặc biệt có bốn triệu chứng là thường gặp trong rối loạn này hơn trong bệnh thực thể: (1) bụng căng trướng (2) đau bụng, giảm đi khi đại tiện (3) hay đại tiện hơn với đau bụng bắt đầu và (4) phân lỏng hơn với sự bắt đầu đau. Trên 90% số bệnh nhân có 2 hoặc nhiều triệu chứng hơn, so với 30% các bệnh nhân bị các rối loạn thực thể.

Đau bụng thường là từng cơn, co thắt (quặn) và ở vùng bụng dưới. Đau thường giảm đi lúc đại tiện, tăng lên khi có stress và đau nhiều hơn trong 1- 2 giờ sau bữa ăn. Thường đau không xẩy ra ban đêm hoặc cản trở giấc ngủ. Các bệnh nhân có thể than phiền táo bón, tiêu chảy, hoặc lần lượt táo bón và tiêu chảy. Điều quan trọng là phải làm rõ bệnh nhân than phiền như vậy thật sự là gì. Bệnh nhân có thể dùng từ táo bón để chỉ phân rắn và nhỏ, phải rặn, hoặc số lần đại tiện giảm. Triệu chứng có thể liên quan với phân lỏng, đi luôn, thúc mót hoặc không nín cầm được đến khi đại tiện. Nhiều bệnh nhân báo cáo có phân chắc rắn buổi sáng và tiếp theo những lần đại tiện lỏng hơn. Thường thấy có chất nhầy ở phần. Các điều than phiền về bụng căng trướng và căng phồng trông thấy mặc dù về mặt lâm sàng thì không rõ ràng.

Sự bắt đầu cấp tính của các triệu chứng nêu lên sự chắc chắn của bệnh thực thể. Tiêu chảy ban đêm, phân có máu tươi, sụt cân và sốt là không phù hợp với chẩn đoán hội chứng ruột kích ứng và là lý do cần điều tra về bệnh căn bản.

Thăm khám thực thể kỹ lưỡng phải được tiến hành để tìm các bằng chứng về bệnh thực thể và làm giảm lo âu của bệnh nhân. Thường thăm khám thực thể không có gì đặc biệt. Cảm giác đau tăng khi sờ chạm ở bụng, nhất là ở bụng dưới là thường thấy nhưng không rõ ràng. Sự có mặt của một khối ở bụng, nội tạng to, hạch lympho to, máu kín đáo ở phân là lý do cần điều tra thêm về bệnh thực thể.

Sự khởi đầu mới mẻ các triệu chứng ở một bệnh nhân trên 40 tuổi cũng biện minh cho sự cần thiết thăm khám thêm.

Các phát hiện labo và các thăm khám đặc biệt

Ở một bệnh nhân 20 - 50 tuổi với chẩn đoán lâm sàng giả thiết là hội chứng ruột kích ứng, một loạt các thăm khám hạn định đươc đảm bảo để kiểm tra bệnh thực thể. Đếm máu toàn bộ, các test huyết thanh học, albumin huyết thanh, tốc độ lắng hồng cầu, test tìm máu kín đáo trong phân, tất cả phải là bình thường. Đối với các bệnh nhân tiêu chảy, các test chức năng tuyến giáp và xét nghiệm phân tìm các trứng ký sinh vật phải được thực hiện. Nếu tiêu chảy chiếm ưu thế, việc thu gom phân 24 giờ là có ích. Trọng lượng phân vượt quá 300g/ngày là không đặc trưng cho ruột kích ứng và chứng tỏ sự cần thiết phải đánh giá thêm, ở các bệnh nhân dưới 40 tuổi, nội soi đại tràng sigma bằng ống mềm phải được thực hiện, ở các bệnh nhân trên 40 tuổi chưa từng được đánh giá trước đây, cần cân nhắc thụt barit hoặc nội soi ruột kết.

Chẩn đoán phân biệt

Các triệu chứng thường gặp này có thể có nguồn gốc thực thể đa dạng mà không nên bỏ qua. Thí dụ như tân sản đại tràng, bệnh viêm ruột, các nguyên nhân gây táo bón mạn tính, các nguyên nhân gây tiêu chảy mạn tính, nội mạc tử cung lạc chỗ và thiếu men lactase. Cũng cần cân nhắc tới các rối loạn tâm thần như trầm cảm và lo lắng.

Điều trị

Các hiện pháp chung

Cũng như đối với các rối loạn chức năng khác, can thiệp quan trọng nhất của thầy thuốc là động viên người bệnh và giải thích đúng đắn về bản chất chức năng của các triệu chứng. Thực chất, giải quyết quan hệ điều trị có thể là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo điều trị thành công tình trạng rối loạn này. Nên giải thích cho bệnh nhân rõ rằng các triệu chứng của họ tăng lên là do cả tăng độ nhậy cảm với kích thích tối thiểu vừa do tăng tính phản ứng mà kết quả là co thắt hoặc vận động ruột bất thường. Tuy nhiên tương tác "tinh thần - ruột" cũng cần được chú ý tới, và đặc biệt cần được nhấn mạnh là các triệu chứng là thực sự, vì nhiều bệnh nhân than phiền rằng thầy thuốc quan niệm triệu chứng đó là phóng đại, chỉ là "trong đầu bệnh nhân". Khi đó thầy thuốc sẽ có thái độ thiếu chú ý và không điều chỉnh gì. Cần làm giảm bớt nỗi sợ làm các triệu chứng tăng lên như lo phải bị mổ hoặc biến thành bệnh nặng. Bệnh nhân cần được giải thích để hiểu rằng hội chứng ruột kích thích là một tình trạng rối loạn mạn tính với đặc điểm có các thời kỳ tăng lên và yên lặng. Thầy thuốc có thể hỗ trợ nhưng không thể "chữa" được rối loạn này. Nên nhấn mạnh việc tìm ra nguyên nhân gây triệu chứng để tìm cách chung sống với bệnh. Thầy thuốc cần kiên trì theo dõi phát hiện các than phiền để phân biệt là mới hay lặp lại trong nghiên cứu chẩn đoán.

Liệu pháp tiết chế

Bệnh nhân thường than phiền không dung nạp được thức ăn song vai trò khởi động của thức ăn trong hội chứng ruột klch thích còn chưa hề được chứng minh rõ rệt. Tuy vậy, thầy thuốc có thể đưa ra ý kiến là nếu thay đổi chế độ ăn vì bất cứ lý do gì thì có làm các triệu chứng đỡ đi. Ở một số bệnh nhân, chế độ ăn uống và sinh hoạt mà gây ra các triệu chứng có thể phát hiện được một số yếu tố do ăn uống và tâm lý xã hội làm tăng các triệu chứng, kém hấp thu lactose, fructose và sorbitol có thể gây căng trướng bụng, đầy hơi và tiêu chảy. Nên loại trừ chứng không dung nạp lactose ở tất cả những bệnh nhân trong thử nghiệm chế độ ăn không có lactose. Sorbitol có trọng một số thực phạm đường nhân tạo và một số thuốc. Một số thực phẩm là loại gây đầy hơi làm bị đau và căng trướng bụng ở một số bệnh nhân. Trong số đó có đậu đen, cải Bruxen, cải bắp, hoa lơ, hành sống, nho, mận, nho khô, cà phê, rượu vang đỏ và bia. Đa số bệnh nhân bị hội chứng ruột kích thích kém hấp thu caffein.

Nên khuyên phần lớn các bệnh nhân làm thử nghiệm chế độ ăn có nhiều xơ (20 - 30g/ngày). Thực hiện có thể bằng cách cho 1 thìa canh bột cám mỗi ngày 2 - 3 lần cùng với thức ăn hoặc vào 235ml chất lỏng. Một số bệnh nhân: thấy tăng đầy hơi và căng trướng bụng với việc bổ sung chất xơ. Các phần bổ sung xơ với hạt mã đề bọ chét (psyllium), methyl cellulose hoặc polycarbophil có thể được dung nạp tốt hơn (xem bài táo bón).

Các liệu pháp dược lý học

Trên hai phần ba số bệnh nhân với hội chứng ruột kích ứng có những triệu chứng nhẹ có đáp ứng dễ dàng với giáo dục, việc làm cho an tâm và các can thiệp dinh dưỡng. Dược liệu pháp phải được dành cho những bệnh nhân với các dấu hiệu nặng hơn, không đáp ứng với các biện pháp bảo tồn này. Các tác nhân này phải được xem như phụ trợ hơn là chữa khỏi. Căn cứ vào phổ rộng của các triệu chứng, không một thuốc riêng rẽ nào có thể mong đợi là đem lại sự giảm bệnh ở tất cả hoặc hầu hết các bệnh nhân. Thật vậy, chưa có bằng chứng thuyết phục nào là các tác nhân này có ưu thế hơn các liệu pháp trấn yên, liệu pháp này đưa đến sự cải thiện triệu chứng dưới 70% các bệnh nhân. Tuy nhiên, liệu pháp nhắm đích vào các triệu chứng cụ thể có thể đem lại lợi ích.

(1) Các tác nhân chống co thắt. Các tác nhân chống tiết cholin có thể làm giảm đau bụng sau bữa ăn, khi được cho 30 - 60 phút trước các bữa ăn. Các tác dụng phụ gồm bí tiểu tiện, nhịp tim nhanh và miệng khô. Các tác nhân sẵn có gồm dicyclomin, 10 - 20mg, uống 3 - 4 lần/ngày; hyoscyamin, 0,125mg uống (hoặc ngậm dưới lưỡi theo yêu cầu); hoặc propanthelin, 15mg uống 3 Lần/ngày. Tuy các thuốc chặn kênh calci làm giãn cơ trơn dạ dày - ruột, chúng đã không được thử nghiệm có kết quả tốt đối với những bệnh nhân bị hội chứng ruột kích ứng.

(2) Các tác nhăn chống táo bón. Một thử nghiệm bổ sung chất xơ với cám, psyllium, methylcellulose hoặc polycarbophil đem lại lợi ích trong phần lớn các trường hợp. Các bệnh nhân không đáp ứng với chất xơ có thể rất khó xử lý. Các tác nhân hỗ trợ vận động cisaprid, 5 - 10mg 3 lần/ngày có thể giúp ích cho các bệnh nhân bị đờ ruột (xem bài táo bón).

(3) Các tác nhân chống tiêu chảy. Các tác nhân dạng thuốc phiện có thể giúp ích cho các bệnh nhân đi lỏng thường xuyên (xem bài tiêu chảy mạn tính). Chúng có thể được dùng tốt nhất "để dự phòng" trong các tình huống có thể đoán trước (như là các tình huống gây stress) hoặc sẽ bất tiện (cuộc hẹn gặp gỡ) nếu tiêu chảy xẩy ra. Các tác nhân bao gồm loperamid, 2mg uống 3 - 4 lần/ngày và diphenoxylat với atropin, 2,5mg, uống 4 lần/ngày.

(4) Các tác nhân hướng tâm thần. Một số bệnh nhân than phiền về đau bụng mạn tính, dai dẳng. Nhóm nhỏ này có tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần và suy giảm chức năng và đòi hỏi đến khám bác sĩ thường xuyên. Các bệnh nhân này có thể nhận được lợi ích là các thuốc chống trầm cảm ba vòng. Amitriptylin, có thể bắt đầu cho liều 25 - 50mg vào giờ đi ngủ và tăng dần là đến 75 - 150mg tùy theo sự dung nạp thuốc.

(5) Các tác nhân khác. Các thuốc làm giảm lo âu và các thuốc ngủ không nên dùng dài hạn trong hội chứng ruột kích ứng vì chúng có tiềm năng gây nghiện. Các tác nhân làm giảm cảm giác hướng tâm nội tạng (đối kháng serotonin 5 –HT3) hiện đang được nghiên cứu.

Các liệu pháp khác

Sửa đổi hành vi với các kỹ thuật thư giãn và liệu pháp thôi miên có thể có ích cho một số bệnh nhân. Các bệnh nhân, với các bất thường về tâm lý có thể nhận được lợi ích từ sự đánh giá của bác sĩ tâm thần hoặc nhà tâm lý học. Các bệnh nhân đau yếu nặng phải được chuyển đến một trung tâm chữa bệnh giảm đau.

Tiên lượng

Tuyệt đại đa số các bệnh nhân bị hội chứng ruột kích ứng học được cách đối phó với các triệu chứng của mình và sống cuộc đời hữu ích.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.