- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Không giãn co thắt thực quản dưới
Không giãn co thắt thực quản dưới
Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán
Khó nuốt chất đặc và chất lỏng tiến triển từ từ.
Ợ ra thức ăn không tiêu.
Chụp X quang thực quản với barit có phần xa của thực quản hình "mỏ chim".
Đo áp lực thực quản xác định chẩn đoán.
Các nhận định chung
Không giãn cơ thắt thực quản là một rối loạn tự phát tính di động thực quản, có đặc điểm là mất nhu động ở hai phần ba xa (cơ trơn) của thực quản và sự giãn cơ thắt thực quản dưới bị tổn hại. Hình như nguyên nhân là thiếu phân bố thần kinh ở thực quản do mất các tế bào hạch trong đám rối thần kinh Auerbach và thoái hóa dây thần kinh phế vị và nhân vận động lưng.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa. Các triệu chứng xuất hiện có thể kéo dài hàng tháng, hàng năm. Sự khó chịu hay cảm giác đầy sau xương ức có thể thấy sau khi ăn. Nhiều bệnh nhân ăn chậm hơn và thực hiện các thao tác riêng như là ngửa cổ và đưa vai ra sau để làm thức ăn qua hết thực quản, ợ thức ăn không tiêu là thường xẩy ra và có thể ngay trong bữa ăn hoặc nhiều giờ sau ăn. Ợ thức ăn ban đêm có thể gây ra ho hoặc hít phải. Sụt cân thường xẩy ra. Thăm khám thực thể không giúp ích gì.
Ghi hình ảnh
Chụp X quang lồng ngực có thể cho thấy một mức nước hơi trong thực quản giãn to chứa đầy chất lỏng. Chụp X quang với barit có những phát hiện đặc trưng bao gồm giãn to thực quản, mất nhu động thực quản, thực quản không chuyển hết thức ăn, và một phần xa thon nhỏ đều đối xứng hình "mỏ chim" của thực quản. Nếu không điều trị, thực quản có thể giãn to rõ rệt. ("thực qụản dạng sigma")
Các thăm khám đặc biệt
Sau khi chụp X quang thực quản, nội soi luồn được thực hiện để đánh giá phần xa của thực quản và chỗ nối thực quản - dạ dày nhằm loại trừ chít hẹp ở phần xa hoặc ung thư biểu mô thâm nhập dưới niêm mạc. Các đặc điểm đo áp lực điển hình là (1) hoàn toàn không có nhu động; việc nuốt đưa đến các làn sóng đồng thời có biên độ thấp; (2) giãn không đầy đủ của cơ thắt thực quản dưới khi nuốt. Trong khi cơ thắt thực quản bình thường ở tư thế giãn khi nuốt là hơn 90%, cơ thắt giãn trong chứng không giãn cơ thắt thực quản chỉ giãn dưới 50% khi bệnh nhân nuốt thức ăn trong phần lớn các trường hợp. Ở nhiều bệnh nhân, áp lực cơ thắt thực quản dưới, có mức áp lực nền khá cao; (3) Các áp lực nội thực quản lớn hơn các áp lực dạ dày do thực quản chứa đầy thức ăn hay chất lỏng.
Chẩn đoán phân biệt
Các u nguyên phát hoặc di căn có thể xâm nhập chỗ nối thực quản - dạ dày, đưa đến hình ảnh giống như không giãn cơ thắt thực quản gọi là "không giãn cơ thắt thực quản giả" có thể cần phải ghi siêu âm, nội soi và chụp cát lớp vi tính nội soi để thăm khám phần xa của thực quản trong các trường hợp nghi ngờ. Không giãn cơ thắt thực quản có thể phân biệt với các rối loạn tính di động khác như co thắt lan tỏa và thực quản xơ cứng bì với chít hẹp do loét tiêu hóa.
Điều trị
Điều trị bằng thuốc
Có thể làm giảm áp lực co thắt thực quản dưới bàng thuốc, bằng các thuốc chặn kênh calci. Nifedipin, 10 - 20 mg đặt dưới lưỡi 30 phút trước bữa ăn làm tình trạng tốt lên nhiều trong thời hạn ngắn ở một số bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ và thực quản không giãn to. Dược liệu pháp cũng dùng cho các bệnh nhân có những vấn đề y học nghiêm trọng mà các liệu pháp khác được coi là nguy hiểm.
Nong hơi
Nong hơi là phương pháp điều trị ban đầu được nhiều bệnh nhân ưa chuộng. Nhờ sự hướng dẫn soi huỳnh quang, các quả bóng độ lớn từ 3 - 4 cm đươc đặt ngang qua cơ thắt thực quản dưới với ý định làm vỡ cơ thắt. 60% đến 75% các bệnh nhân nhận thấy giảm mức tốt đến rất tốt chứng khó nuốt. Thủng có thể xảy ra ở 6% các lần nong, cần can thiệp phẫu thuật.
Thủ thuật rạch cơ
Điều trị ngoại khoa thường dành cho các bệnh nhân đã không đạt kết quả với nong hơi. Thủ thuật rạch cơ Heller trong cơ thắt thực quản dưới đưa đến kết quả là làm giảm triệu chứng rất tốt ở hơn 85% số bệnh nhân. Mặc dù có hiệu quả cao, điều trị này đòi hỏi mở thành bụng hoặc mở lồng ngực. Dòng trào ngược thực quản - dạ dày có thể gây rắc rối cho việc rạch cơ sau này. Một số trung tâm thực hiện rạch cơ qua ống soi lồng ngực và đang báo cáo các kết quả rất tốt. Phẫu thuật qua ống soi lồng ngực là xâm nhập tối thiểu và làm giảm rõ rệt thời gian hồi phục sau mổ từ 2 - 3 tuần xuống còn 2 - 3 ngày.
Tiên lượng
Nếu tiến hành điều trị trước khi giãn thực quản rõ rệt phát triển, việc nuốt trở lại gần như bình thường ở phần lớn các bệnh nhân. Tỷ lệ bị ung thư biểu mô tế bào vảy của thực quản tăng lên trong không giãn cơ thắt thực quản ở phần lớn các bệnh nhân, bất kể điều trị như thế nào.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.
Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình
Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.
Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới
Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.
Các khối u dạ dày
Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng
Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Viêm túi thừa ruột kết
Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.
Tiêu chảy mạn tính
Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Hội chứng ruột kích ứng
Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Tiêu chảy cấp tính
Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.
Các tổn thương ác tính ở thực quản
Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng
Sốt địa trung hải gia đình
Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.
