Các khối u dạ dày

2016-11-24 12:01 PM

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các khối u lành tính dạ dày

Các polip biểu mô dạ dày thường được tình cờ phát hiện khi làm nội soi. Phần lớn là các polip tăng sản, nhỏ, đơn độc hoặc nhiều thành cụm, không có khả năng ác tính, và không cần cắt bỏ hoặc giám sát bằng nội soi. Các polip u tuyến chiếm 10 - 20% các polip dạ dày. Chúng thường là các tổn thương đơn lẻ. Trong những ca hiếm thấy, chúng loét ra gây mất máu mạn tính, vì có khả năng tiền ác tính nên cần được lấy đi bàng nội soi. Việc giám sát nội soi hàng năm được khuyến nghị để kiểm tra phát triển thêm polip. Các tổn thương dạng polip dưới niêm mạc dạ dày bao gồm u cơ trơn và các cầu đỡ tụy của tuyến tụy.

Ung thư biểu mô tuyến dạ dày

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Các triệu chứng khó tiêu và sụt cân ở các bệnh nhân trên 40 tuổi.

Thiếu máu do thiếu sắt, có máu kín đáo trong phân.

Bệnh được phát hiện do loạt chụp dạ dày ruột hoặc nội soi.

Các nhận định chung

Mặc dù ung thư biểu mô tuyến dạ dày là ung thư thường gặp nhất trên toàn cầu (khác với ung thư da), tỷ lệ mắc bệnh ở Hoa Kỳ đã giảm đi hai phần ba trong 30 năm qua xuống hàng năm còn có 20.000 ca. Ung thư dạ dày hiếm gặp dưới tuổi 40; tuổi chẩn đoán trung bình là 63. Nam giới bị mắc hai lần nhiều hơn nữ giới. Tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở những người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, người Mỹ gốc châu Phi, và gốc châu Á. Một số miền như Chilê, Columbia, Trung Mỹ và Nhật Bản có các tỷ lệ cao đến 80/100.000 dân số. Tuy phần lớn các ung thư dạ dày phát sinh ở hang vị, tỷ lệ mắc các u phía gần của tâm vị và đáy dạ dày đang tăng lên.

Viêm dạ dày H. pylori mạn tính là nhân tố nguy cơ cao đối với ung thư biểu mô dạ dày ở phía xa (chứ không ở phía gần) làm tăng nguy cơ tương đối gấp 3,8 lần. Người ta dự tính rằng 35 - 89% các ca ung thư biểu mô dạ dày có thể quy cho H. pylori. Đáng lứu ý rằng dưới 1% các cá nhân bị nhiễm khuẩn mạn tính sẽ phát triển ung thư biểu mô. Các nhân tố nguy cơ khác của ung thư dạ dày bao gồm viêm teo dạ dày mạn tính với dị sản ruột (thường thứ phát do nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính), thiếu máu ác tính và một tiền sử cắt bỏ dạ dày một phần trên 15 năm trước đó.

Ung thư dạ dày co thể xẩy ra với các loại hình khác nhau: (1) các khối polip hoặc sùi lên; (2) các khối loét ra; (3) lan tỏa rộng (đường tạo hình), trong đó u phát triển qua lớp niêm mạc, dẫn đến một dạ dày mất trương lực với cắc nếp gấp dầy lên (tiên lượng xấu); và (4) phát triển rộng nông hoặc ung thư dạ dày "sớm" - giới hạn ở niêm mạc hoặc vùng dưới niêm mạc (có hoặc không có di căn hạch lympho) và có một tiên lượng rất tốt.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng cho đến khi bệnh đã tiến triển. Các triệu chứng không đặc trưng và được xác định một phần do vị trí của khối u. Khó tiêu, đau thượng vị không rõ ràng, chán ăn, ăn chóng no, và sụt cân là các triệu chứng bộc lộ ở phần lớn các bệnh nhân. Các bệnh nhân có thể làm giảm triệu chứng ban đầu bằng các thuốc không có đơn kê, làm trì hoãn việc chẩn đoán chậm hơn nữa. Các tổn thương loết có thể dẫn tới xuất huyết dạ dày - ruột cấp tính với nôn máu hoặc đại tiện máu đen. Tắc môn vị dẫn tới nôn sau bữa ăn. Tắc thực quản dưới gây ra khó nuốt tiến triển. Thăm khám thực thể hiếm khi giúp ích. Sờ nắn thấy một khối ở vùng dạ dày gặp trong dưới 1/5 số bệnh nhân. Các dấu hiệu phát triển di căn bao gồm hạch lympho trên xương đòn trái (hạch Virchow), một hạch nhỏ vùng rốn (hạch nhỏ xơ Mary Joseph), một thềm nhồ trực tràng cứng (thềm nhô Blumer) và các di căn vào buồng trứng (u Krukenberg). Có thể phát hiện xét nghiệm phân guaic dương tính (nhuộm acid carbonic ester guaicol).

Các phát hiện labo

Thiếu máu thiếu sắt do mất máu mạn tính hoặc thiếu máu của bệnh mạn tính thường xẩy ra. Các test chức năng gan có thể bất thường nếu phát triển di căn tới gan. Các phương pháp đánh dấu khối u không có giá trị.

Nội soi

Nội soi phần trên phải được thực hiện ở mọi bệnh nhân tuổi trên 40 với sự bắt đầu mới mẻ của các triệu chứng thượng vị dai dẳng hoặc không đáp ứng với một lần điều trị thử bằng các thuốc kháng acid. Nội soi với các mẫu chải tế bào học và sinh thiết tổn thương nghi ngờ là rất nhậy trong việc phát hiện ung thư biểu mô dạ dày. Có thể khó lấy được các mẫu sinh thiết đầy đủ trong các tổn thương "đường tạo hình". Do tỷ lệ mắc bệnh ung thư biểu mô dạ dày cao ở Nhật Bản, nội soi đường dạ dày - ruột trên để kiểm tra được thực hiện nhằm phát hiện bệnh sớm. Xấp xỉ 40% các khối u do kiểm tra phát hiện được sớm với tỷ lệ sống thêm 5 năm là gần 90%. Các chương trinh sàng lọc không được khuyến nghị ở Hoa Kỳ.

Ghi hình ảnh

Loạt chụp đường dạ dày - ruột trên với barit là một khả năng lựa chọn chấp nhận được khi không có nội soi nhưng không thể phát hiện các tổn thương nhỏ nông và không phận biệt được một cách đáng tin cậy các ổ loét lành với các ổ loét ác tính. Tất cả những bất thường phát hiện được trên X quang đòi hỏi sự xác minh bằng nội soi.

Một khi chẩn đoán là ung thư dạ dày, việc đánh giá trước mổ được chỉ định để mô tả tầm cỡ tại chỗ của u nguyên phát cũng như các di căn vào hạch hoặc đi xa. Chụp cắt lớp vi tính bụng có giá trị xác định các di căn xa, và sự xâm nhập trực tiếp vào các cấu trúc kế cận. Hình ảnh siêu âm nội soi hiện nay có sẵn ở nhiều trung tâm và có ưu thế hơn chụp cắt lớp vi tính trong việc xác định chiều sâu thâm nhập của u và các di căn hạch.

Chẩn đoán phân biệt

Các ung thư biểu mô tuyến dạ dày có thành loét được phân biệt với các ổ loét dạ dây lành tính bằng sinh thiết. Xấp xỉ 3% các ổ loét dạ dày ban đầu cảm thấy là lành, về sau hóà ra ác tính. Để loại trừ u ác tính, phải theo dõi các ổ loét dạ dày bằng nội soi cho đến khi khỏi hẳn, và phải cắt bỏ các ổ loét dạ dày dai dẳng khó chữa. Ung thư biểu mô thâm nhập với các nếp gấp dầy lên của dạ dày phải được phân biệt với u lympho và các bệnh dạ dày phì đại như bệnh Ménétrier. Việc lấy các mẫu sinh thiết đầy đủ có thể khó khăn và một sinh thiết mở lấy đủ chiều dầy ổ loét đôi khi là cần thiết.

Điều trị

Phẫu thuật cắt bỏ là liệu pháp duy nhất hiện có với khả năng chữa khỏi bệnh. Các bệnh nhân bị bệnh khu trú không có di căn xa hoặc tổn thương các cơ quan kế cận trải qua cắt bộ toàn bộ dạ dày nhằm mục đích chữa bệnh có tỷ lệ sống thêm 5 năm là 20 - 30%. Đáng tiếc là, trên cơ sở lượng giá trước và trong khi mổ, dưới 30% số bệnh nhân có bệnh lại không thể cắt bỏ thật sự để "chữa bệnh". Đối với các u xa, việc cắt bỏ chữa bệnh thường bao gồm việc cát bỏ dạ dày gần toàn phần và cắt bỏ các hạch lympho khu vực. Đối với các u gần và đường tạo hình thường cần cắt bỏ dạ dày toàn phần với cắt bỏ lách. Hiện nay chưa xác lập được vai trò của hóa liệu pháp bổ trợ hoặc liệu pháp chiếu xạ ngoài các thử nghiệm lâm sàng.

Đa số các bệnh nhân (70%) với ung thư dạ dày đến cơ sở y tế với bệnh đã tiến triển có tiên lượng xấu. Đối với các bệnh nhân này, việc điều trị hướng vào làm giảm nhẹ. Đối với các bệnh nhân có hy vọng sông vài tháng, việc cát bỏ làm giảm nhẹ được chỉ định, khi có thể, để dự phòng tắc hoặc xuất huyết. Việc cắt bỏ làm giảm nhẹ liên quan với khả năng sống dài hơn và đỡ đau đớn cho bệnh nhân. Nếu về mặt kỹ thuật, việc cắt bỏ không thể thực hiện do tổn thương rộng lớn ngoài dạ dày, phải thực hiện nối dạ dày - hỗng tràng. Với các bệnh nhân khác, biện pháp phải hướng vào làm giảm đau và các triệu chứng. Xuất huyết khối u có thể chế ngự bằng chiếu xạ, liệu pháp laze nội soi hoặc chụp mạch làm nghẽn mạch. Hóa liệu pháp đơn tác nhân với fluorouracil, mitomycin, hoặc doxorubicin hoặc phối hợp các chế độ thuốc (etoposid, doxorubicin và cisplatin) có thể làm giảm nhẹ đôi chút cho 20 - 30% số bệnh nhân nhưng có vẻ không kéo dài thêm cuộc sống.

Tiên lượng

Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung của ung thư biểu mô dạ dày chi là 12%. Sống lâu dài hơn tùy thuộc vào giai đoạn của u, vị trí, các đặc điểm mộ học. Các u ở giai đoạn I và II (có thể cất bỏ để chữa) cho phép sống sót trong 30 - 70%. Các u loại lan tỏa và ung thư biểu mô hình nhẫn có tiên lượng xấu hơn các tổn thương loại ruột, Các u dạ dày phía gần (đáy dạ dày, tâm vị) có tiên lượng xấu hơn nhiều so với các tổn thương phía xa; ngay cả với bệnh bề ngoài có vẻ là khu trú, các u ở khu vực này chỉ có được tỷ lệ sống thêm 5 năm là 10 - 15%.

U lympho

U lympho chiếm dưới 2% các u ác tính dạ dày. Các u này hầu như luôn là các u lympho không phải Hodgkin, chủ yếu thuộc loại mô bào lan tỏa. U lympho dạ dày là loại thông thường nhất của u lympho không phải Hodgkin bên ngoài hạch. Sự bộc lộ lâm sàng và hình ảnh nội soi tương tự như ung thư biểu mô tuyến. Chẩn đoán được xác lập bằng sinh thiết nội soi.

Việc điều trị hiện đang còn tranh luận. Các bệnh nhân với bệnh giới hạn ở dạ dày (giai đoạn IE) phải được cát bỏ ngoại khoa, nhưng vai trò của hóa liệu pháp bổ trợ và liệu pháp chiếu xạ chưa rõ rệt. Các bệnh nhân với bệnh lan tới các hạch lympho (giai đoạn II) hoặc các cơ quan kế cận (giai đoạn III) hoặc với sự phát triển xa của bệnh (giai đoạn IV) phải được điều trị hóa học như phương thức điều trị chủ yếu. Việc cắt bỏ ngoại khoa được bổ sung cho một số tình huống để làm giảm nguy cơ biến chứng tại chỗ như là thủng hoặc xuất huyết trong liệu pháp hóa học. Tỷ lệ sống 5 năm chung là 50% nhưng có thể là 80% với các bệnh nhân ở giai đoạn I hoặc giai đoạn II của bệnh.

Các u dạng ung thư

Các u dạng ung thư (carcinoid) của dạ dày là các u hiếm gặp, xẩy ra đơn phát và có ở 3 - 5% các bệnh nhân với hội chứng Zollinger - Ellison và thiếu máu ác tính do tăng gastrin huyết mạn tính. Chúng có thể là đơn độc hoặc có nhiều tâm. Mặc dù chúng có thể tiết ra nhiều peptid của đường ruột, bao gồm serotonin, gastrin, các hormon tuyến yên và các catecholamin, phần lớn chúng im lặng về mặt lâm sàng và được tình cờ phát hiện khi nội soi. Sự phát triển triệu chứng thường phản ánh các di căn ở gan. Phần lớn chúng nhỏ, chậm tăng trưởng và lành tính. Các u có đường kính lớn hơn 2cm có khả năng nhiều hơn bị phát triển thành ác tính và phải được phẫu thuật cắt bỏ. Các tổn thương nhỏ, đơn độc có thể lấy đi bằng nội soi. Sự thoái triển của các u dạng ung thư xẩy ra sau khi cắt bỏ hang vị và giải quyết tăng gastrin huyết.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.