Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

2016-11-24 01:53 PM

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Đau bụng liên tục, chướng bụng, nôn và táo bón nặng.

Tiền sử có yếu tố hối thúc (đã phẫu thuật, viêm màng bụng, các thuốc chống tiết cholin, viêm phổi, nhồi máu cơ tim dưới).

Đau bụng khi sờ nắn ở mức tối thiểu; các tiếng của ruột giảm hay mất.

Bằng chứng X quang về hơi và mức nước trong ruột.

Các nhận định chung

Tắc ruột vô lực là sự suy yếu thần kinh hoặc cơ của nhu động, có thể dẫn tới tắc ruột. Nó là một rối loạn thường gặp, do nhiều nguyên nhân trong ổ bụng có thể gây nên, thí dụ sau mổ dạ dày - ruột, kích thích màng bụng (xuất huyết, nội tạng vỡ, viêm tụy, viêm màng bụng) hoặc tắc thực thể do thiếu oxy. Các thuốc có các tính chất chống tiết cholin, cơn đau thận, gẫy xương sống, tổn thương tủy sống, các nhiễm khuẩn nặng, tăng urê huyết, hôn mê đái tháo đường, và các bất thường điện giải (đặc biệt là giảm kali huyết) cũng có thể gây tắc ruột vô lực.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Có đau bụng nhẹ tới trung bình, tính chất liên tục hơn là từng cơn một, kèm theo nôn (về sau chất nôn có phân) và táo bón nặng. Không có tiếng ùng ục ở bụng. Các triệu chứng của bệnh ban đầu (khởi phát) cũng có thể xuất hiện (như sốt, mệt lử do nội tạng vỡ).

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra. Các tiếng của ruột giảm hay mất. Mất nước có thể xẩy ra sau khi nôn kéo dài hoặc do sự tách biệt chất lỏng ở các quai ruột. Các dấu hiệu khác của rối loạn ban đầu có thể xuất hiện.

Các phát hiện labo

Với nôn kéo dài, có thể xẩy ra cô đặc máu, mất cân bằng điện giải. Tăng bạch cầu, thiếu máu tăng amylase huyết thanh có thể xuất hiện tùy theo tình trạng ban đầu.

Ghi hình ảnh

Chụp X quang bụng cho thấy các quai ruột căng giãn đày hơi của ruột non và ruột kết, kể cả trong trực tràng. Có thể có bằng chứng về các mức nước - hơi trong các ruột bị căng giãn. Khi chưa rõ có thể thụt barit và X quang rưột non tiếp theo để loại trừ tắc ruột thực thể.

Chẩn đoán phân biệt

Các triệu chứng và dậu hiệu tắc ruột với mất tiếng ruột và một tiền sử có bệnh nghi ngờ về chẩn đoán. Điều quan trọng là biết chắc rằng tắc ruột vô lực không phải là thứ phát của tắc ruột thực thể, đặc biệt là do thiếu oxy, khi ấy xử trí bảo tồn gây hại và phẫu thuật tức thời có thể cứu sống.

Điều trị

Phần lớn các trường hợp tắc ruột vô lực là sau mổ và đáp ứng với sự hạn chế cho ăn uống và mở rộng dần chế độ ăn trong khi chức năng ruột đang phục hồi. Tắc ruột nặng và kéo dài có thể cần hút dạ dày - ruột và hạn chế hoàn toàn cho ăn uống. Trong các trường hợp này bồi phụ các chất lỏng và điện giải theo đường ngoài ruột là cần thiết. Đặt ống trực tràng hoặc chỉ cần đặt ống soi ruột kết đã có thể giúp làm giảm áp lực của ruột kết bị giãn to. Khi liệu pháp bảo tồn thất bại, có thể cần phải phẫu thuật nhằm làm giảm áp lực ruột bằng cách mở thông ruột hoặc mở thông manh tràng và loại bỏ tắc cơ học.

Các ca tắc ruột vô lực thứ phát của các rối loạn khác (như mất cân bằng điện giải, nhiễm khuẩn nặng, tổn thương trong ổ bụng hoặc lưng, viêm phổi không điển hình) được xử trí như trên cộng thêm điều trị bệnh tiên phát.

Tiên luợng

Tiên lượng thay đổi theo tiên lượng của bệnh tiên phát.

Tắc ruột vô lực có thể tiêu tan không cần liệu pháp đặc hiệu khi nguyên nhân bị loại bỏ. Đặt ống để làm giảm áp lực thường đạt kết quả làm chức năng ruột phục hồi.

Giả tắc ruột tự phát

Rối loạn tự phát này thường thấy ở thiếu niên và thanh niên có đặc điểm là các triệu chứng tái phát của tắc ruột nhưng không có bằng chứng về tắc ruột thực thể trên X quang hoặc phẫu thuật thâm dò. Hội chứng Ogilvie, một vấn đề tương tự, bao gồm giãn to manh tràng là chủ yếu, ở những bệnh nhân già nằm liệt giường và thường có bệnh phổi tắc mạn tính. Ở cả hai, tất cả các nguyên nhân nêu ở trên về tác ruột chức năng đều không có. Bệnh nhằn được điều trị bằng hút đường mũi - dạ dày, truyền dịch tĩnh mạch và nuôi dưỡng ngoài đường ruột khi cần thiết làm giảm áp lực bằng đặt ống nội soi ruột kết hoặc mở thông manh tràng là cần thiết trong hội chứng Ogilvie.

Bài viết cùng chuyên mục

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.