Bệnh Crohn

2016-11-26 10:52 AM

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Khởi phát âm ỉ.

Những đợt sốt nhẹ từng cơn, tiêu chảy, và đau bụng ở cùng phàn tư dưới phải.

Nổi khối và tăng cảm giác đau ở cung phần tư dưới phải.

Bệnh quanh hậu môn với áp xe và các đường rò.

Bằng chứng trên phim chụp X quang về loét, chỗ chít hẹp hoặc các đường rò ở ruột non hoặc ruột kết.

Các nhận định chung

Bệnh Crohn là một quá trình viêm tự phát có thể gây bệnh cho bất kỳ phần nào của đường tiêu hóa từ miệng đến hậu môn. Một phần ba số trường hợp chỉ gây tổn thương cho ruột non, thường gặp nhất ở cuối hồi tràng (viêm hồi tràng). Khoảng một nửa các trường hợp có tổn thương ở ruột non và ruột kết, thường thấy nhất ở đoạn cuối hồi tràng và đại tràng lên kề cận (viêm hồi - manh tràng), ở 15 - 20% trường hợp chỉ có riêng ruột kết bị bệnh. Không giống như viêm loét ruột kết, bệnh Crohn là một quá trình bệnh xuyên thành gây hậu quả là viêm lớp niêm mạc và loét, chít hẹp, tạo lỗ dò và hình thành áp xe.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Vì có khu trú và mức độ nặng của viêm khác nhau, nên bệnh Crohn có thể biểu hiện với nhiều biến thể triệu chứng và dấu hiệu, khi khai thác bệnh sử, nhà lâm sàng phải đặc biệt chú ý đến các cơn sốt, cảm giác khỏe khoán chung của bệnh nhân, đau bụng, số làn đại tiện lỏng trong ngày, và những lần mổ cắt bỏ trước đây. Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột. Thường gặp nhất là có sự kết hợp giữa những tập hợp thực thể lâm sàng sau đây:

Bệnh viêm mạn tính

Đây là sự biểu hiện thông thường nhất và hay thấy ở các bệnh nhân với viêm hồi tràng và viêm hồi - manh tràng. Các bệnh nhân than phiền sốt nhẹ, kho chịu, sụt cân, và mất sức lực. Có thể xuất hiện tiêu chảy, phân không có máu vá gián cách. Đau thắt hoặc đau đều đều ở cung phần tư dưới phải hoặc quanh rốn. Thăm khám lầm sàng phát hiện tăng cảm giác đau ở tiêu điểm (ổ bệnh), thường là cung phần tư dưới phải. Một khối sờ thấy, tăng cảm giác đau có thể xuất hiện tại bụng dưới, biểu thị các quai ruột bị viêm đầy lên hoặc ráp lại với nhau.               

Tắc ruột

Sự hẹp lại của ruột non có thể xẩy ra như là hậu quả của viêm, co thắt và chít hẹp do xơ. Các bệnh nhân thấy trướng phình bụng sau ăn, đau thắt, và sôi bụng ùng ục to. Điều này đôi khi xẩy ra ở các bệnh nhân bị các triệu chứng viêm hoạt động. Tuy nhiên, thông thường hơn là nó xẩy ra muộn hơn trong căn bệnh do xơ hóa mạn tính mà không có các triệu chứng toàn thân khác hoặc các dấu hiệu viêm khác.

Hình thành đường rò có hoặc không viêm nhiễm

Một nhóm nhỏ các bệnh nhân phát triển các đường xoang ăn sâu vào ruột tạo nên các đường rò ở nhiêu địa điểm. Đường rò vào mạc treo thường không có triệu chứng nhưng có thể đưa đến các áp xe trong bụng hoặc sau màng bụng, biểu hiện bằng sốt, rét run, một khối nổi ở bụng/đau khi sờ chạm và tăng bạch cầu đa nhân. Các đường rò từ ruột kết vào ruột non hoặc vào dạ dày có thể dẫn đến sự phát triển quá nhiều các vi khuẩn với tiêu chảy, sụt cân và suy dinh dưỡng. Các đường rò vào bàng quang hoặc âm đạo gây các nhiễm khuẩn tái phát. Các đường rò ruột - dạ dày thường xảy ra ở vị trí các vết sẹo do phẫu thuật.

Bệnh quanh hậu môn

Một phần ba số bệnh nhân với tổn thương ruột hoặc lớn hoặc nhỏ phát triển bệnh quanh hậu môn biểu hiện bằng các đường rò hậu môn, các áp xe quanh hậu môn và các đường rò. Điều này có thể là một vấn đề gây phiên muộn.        

Các hiểu hiện bên ngoài đường ruột

Các biểu hiện bên ngoài ruột kết được mô tả trên với viềm ruột kết loét có thể thấy ở bệnh nhân Crohn, đặc biệt là ở viêm ruột kết loét có thể thấy ở bệnh Crohn, đặc biệt lá ở viêm ruột kết Crohn. Các vấn đề khác cũng có thể phát sinh. Cấc tổn thương áp tờ miệng là thường có. Có sự tăng tỷ lệ lưu hành bệnh sỏi mật do kém hấp thu các muối mật từ phần cuối hồi tràng. Có thể xẩy ra bệnh sỏi thận với urat hoặc calci oxalat.

Các phát hiện labo

Có mối tương quan không đáng kể giữa các nghiên cứu labô và hình ảnh lâm sàng của bênh nhân. Các giá trị labô có thể phản ánh hoật động viêm hoặc các biến chứng dinh dưỡng của bệnh. Phải thực hiện đếm máu toàn bộ và albumín huyết thanh cho tất cả các bệnh nhân. Thiếu máu có thể phản ánh viêm mạn tính, mất máu từ niêm mạc, thiếu sắt, hoậc kém hấp thu vitamin B12 thứ phát của viêm hoặc cắt bỏ đoạn cuối hồi tràng. Tăng bạch cầu có thể phản ánh viêm hoặc hình thành áp xe, hoặc có thể thứ phát do điều trị corticoid. Giảm albumin - huyết có thể do mất protêin do ruột (bệnh ruột làm mất protếin), kém hấp thu hoặc viêm mạn tính. Tốc độ lắng máu hoặc mức độ protêin phản ứng - C tăng cao ở nhiều trong viêm nhiễm hoạt động. Các mẫu phân đước gửi để xét nghiệm các vi khuẩn gây bệnh thèo thông lệ, các trứng và ký sinh vật, và độc tố C. difficile.

Các nghiên cứu chẩn đoán đặc biệt

Ở phần lớn các bệnh nhân, chẩn đoần ban đầu của bệnh Crohn dựa trên hình ảnh lâm sàng trường hợp với các phát hiện X quang hỗ trợ. Các phim X quang hàng loạt đường dạ dày - ruột với sự thực hiện chu đáo về ruột non được làm cho tất cả bệnh nhân. Các phát hiện gợi ý bao gồm các chỗ loét, chỗ nghẽn chẹt và các đường rò. Để đánh giá ruột kết phải thụt barit hoặc nội soi ruột kết. Nội soi ruột kết có lợi là lấy được các sinh thiết về ruột kết và đoạn cuối hồi tràng. Các phát hiện nội soi điển hình bao gồm các ổ loét áp tơ, các ổ loét hình sao, các chỗ nghẽn chẹt, và các tổn thương từng đoạn với những vùng niêm mạc có vẻ bình thường kể cận niêm mạc bị viêm, ở 10% các ca, có thể việc phân biệt viêm ruột kết loét với bệnh Crohn không thực hiện được. Sự xuất hiện các u hạt trên sinh thiết được thấy ở dưới 25% bệnh nhân nhưng làm nghĩ đến bệnh Crohn nhiều.

Các biến chứng

Áp xe

Sự có mặt của khối nổi ở bụng đau khi sờ chạm với sốt và tăng bạch cầu gợi ý là một áp xe. Chụp cắt lớp vi tính cấp cứu vùng bụng là cần thiết để xác minh chấn đoán. Các bệnh nhân phải được cho các kháng sinh phổ rộng và nếu suy dinh dưỡng, được duy trì bằng nuôi dưỡng ngoài đường ruột hoàn toàn. Thường cần dẫn lưu qua da hoặc phẫu thuật.

Tắc ruột

Tắc ruột non có thể phát hiện thứ phát sau viêm hoạt động hoặc tắc nghẽn xơ hóa mạn tính, thường bị cấp tính do thiếu thận trọng ăn uống gây ra. Các bệnh nhân phải được cho các chất dịch đường tĩnh mạch cùng với hút dạ dày qua mũi trong nhiều ngày. Các thuốc steroid dùng toàn thân được chỉ định cho các bệnh nhân với các dấu hiện và triệu chứng viêm hoạt động nhưng không giúp ích gì cho các bệnh nhân với thể bệnh ổn định, không hoạt động. Các bệnh nhân không thuyên giảm do xử trí nội khoa cần mổ cắt bỏ vùng hẹp hoặc tạo hình chỗ chít hẹp.

Các đường rò

Phần lớn các đường rò ruột - màng bụng và ruột - ruột không cọ triêu chứng và không cần liệu pháp đặc hiệu. Phần lớn các đường rò có triệu chứng cần liệu pháp phẫu thuật, đặc biệt khi có bằng chứng bị chít hẹp ruột ở dưới đường rò. Điều trị nôi khoa có hiệu quả cho một nhóm nhỏ bệnh nhân và thường được thử dùng trước khi mổ. Nhiều đường rò đóng lại tạm thời đáp ứng với nuôi dưỡng hoàn toàn ngoài đường ruột nhưng tái phát khi lại tiếp tục cho ăn uống đường miệng. Mercaptopurin chữa khỏi các đường rò ở 30 - 40% các bệnh nhân nhưng cần thời gian 3 - 4 tháng.

Bệnh quanh hậu môn

Các bệnh nhân có các khe nứt, đường rò và mảnh da lòng thòng có sự khó chịu ở hậu môn, được điều trị bảo tồn bằng ngâm rửa ngồi bồn và các đệm lót bằng bông để hấp thu dẫn lưu. Làm cầm tiêu chảy là quan trọng. Metronidazol, 250mg 3 hoặc 4 lần mỗi ngày và mercaptopurin có thể giúp ích cho một số bệnh nhân bị bệnh quanh hậu môn. Điều trị ngoại khoa các đường rò quanh hậu môn là không cần thiết và phải được tránh cho phần lớn các bệnh nhân. Các bệnh nhân có các áp xe cần được làm thủ thuật rạch bảo tồn và dẫn lưu.

Ung thư biểu mô

Các bệnh nhận bị bệnh Crohn ruột kết có nguy cơ tăng bị ung thư biểu mô ruột kết. Nội soi ruột kết kiểm tra được một số chuyên gia hàng đầu khuyến nghị.

Xuất huyết

Khác với viêm loét ruột kết, xuất huyết nặng hiếm gặp trong bệnh Crohn.

Kém hấp thu

Kém hấp thu có thể phát sinh do sự tăng trưởng quá nhiều các vi khuẩn ở các bệnh nhân có các đường rò ruột non - ruột kết, các chỗ chẹt nghẽn và ứ đọng, viêm hỗng tràng rộng, các phẫu thuật cắt bỏ trước đây.

Chẩn đoán phân biệt

Đau thắt bụng mạn tính và tiêu chảy là đặc trưng của cả hội chứng ruột kích ứng và bệnh Crohn, nhưng kết quả X quang là bình thường trong hội chứng ruột kích ứng. Sốt đột ngột và đau cung phân tư dưới phải có thể giống viêm ruột thừa hoặc viêm ruột non - ruột kết Yersin. U lympho ruột gây sốt, đau, sụt cân, và các phim X quang ruột non bất thường có thể giống với bệnh Crohn. Các bệnh nhân với AIDS chưa được chẩn đoán có thể bộc lộ sốt và tiêu chảy. Viêm ruột kết ở một đoạn có thể do lao, Entamoeba histolytica, Chlamydia hoặc viêm ruột kết do thiếu máu cục bộ. Viêm túi thừa với sự hình thành áp xe có thể khó phân biệt rạch ròi với bệnh Crohn

Điều trị bệnh giai đoạn tiến triển

Bệnh Crohn là một đau yếu mãn tính suốt đời, có đặc điểm là những đợt nặng lên và những thời kỳ thuyên giảm, vì không có các liệu pháp đặc hiệu, điều trị hiện nay được hướng vào làm đỡ các triệu chứng và kiểm soát quá trình bệnh. Điều trị phải nhằm vào các vấn đề cụ thể của từng cá nhân người bệnh.

Dinh dưỡng

Chế độ ăn. Các bệnh nhân phải ăn theo chế độ cân bằng, vì thường có sự không dung nạp lactose, việc thử không dùng các sản phẩm sữa là cần thiết. Các bệnh nhân chủ yếu bị tổn thương ruột kết có thể được lợi do bổ sung chất xơ. Ngược lại, các bệnh nhân với các triệu chứng tắc phải được đặt vào chế độ ăn ít chất xơ tức là khống có hoa quả, rau, bỏng ngô, hạt, v.v... Cắt bỏ trên 100cm đoạn cuối hồi tràng đưa đến kém hấp thu mỡ. Khi đó phải ăn chế độ ít mỡ với sự bổ sung triglycerid chuỗi trung bình.

Liệu pháp ruột. Liệu pháp ruột với các chế độ ăn cơ bản (như Vivonex) trong 4 tuần cũng co hiệu quả bằng các corticosteroid trong việc gây ra thuyên giảm nhưng tỷ lệ tái phát sau khi trở lại chế độ ăn bình thường là cao.

Nuôi dưỡng ngoài ruột toàn bộ. Nuôi dưỡng ngoài ruột toàn bộ được dùng ngắn hạn cho các bệnh nhân với bệnh hoạt động và suy dinh dưỡng nặng; cho các bệnh nhân với các đường rò trong khi đang điều trị nội khoa; và sau mổ để cải thiện trạng thái dinh dưỡng. Nó là cần thiết cho một nhóm nhỏ các bệnh nhân đã cắt bỏ ruột rộng dẫn đến hội chứng ruột ngắn với suy dinh dưỡng.

Các thuốc chữa triệu chứng

Chống tiêu chảy. Tiêu chảy mạn tính có thể đáp ứng mau chóng với các tác nhân chống tiêu chảy. Loperamid (2 - 4mg), diphenoxylat với atropin (một viên), và cồn thuốc phiện (8 - 15) giọt) có thể được cho theo sự cần thiết, có thể đến 4 lần một ngày. Các bệnh nhân với bệnh hòi tràng đoạn cuối hoạt động hoặc cắt bỏ đoạn cuối hồi tràng trên 100cm có thể được lợi ích với cholestyramin (2 - 4g) hoặc colestipol (5g) một hoặc hai làn một ngày để gắn kết các muối mật kém hấp thu.

Các thuốc chống co thắt. Propanthelin (15mg), dicyclomin (10 - 20mg), hoặc L-hyoscyamin (0,125mg) cho trước các bữa ăn có thể làm giảm các co thắt ở bụng. Các bệnh nhân phải ngùng dùng các tác nhân này khi có dấu hiệu đầu tiên tắc ruột.

Liệu pháp thuốc đặc hiệu

Các tác nhân 5 - ASA: Sulfasalazin, 1,5 - 2g hai lần/ngày có hiệu quả làm giảm các dấu hiệu lâm sàng của hoạt tính bệnh cho các bệnh nhân với tổn thương ruột kết nhưng ít lợi ích vái bệnh ruột non. Khác với sulfasalazin, các hợp chất mesalamin mới giải phóng 5 - ASA trong ruột non phía xa, đưa đến các lợi ích về lý thuyết. Sự hiệu nghiệm của chúng trong bệnh Crohn hoạt động đang được khảo sát.

Các corlicosteroid. Các corticosteroid trấn áp mạnh mẽ những dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng cấp tính ở phần lớn các bệnh nhân vội bệnh ở cả ruột non và ruột kết. Song các steroid có vẻ không làm biến đổi cơ địa bệnh căn bản. Prednison, 40 - 60mg/ngày thường được cho những bệnh nhân thể bột phát, hoạt động của bệnh Crohn. Sau khi bệnh đỡ 2 - 3 tuần, giảm liều lượng dần tiến hành ở mức 5mg/tuần cho đến liều 20mg/ngày. Sau đó, giảm liều thật chậm, ở mức 2,5mg/tuần hoặc hai tuần. Một số bệnh nhân không thể hoàn toàn không dùng steroid mà không thấy sự bột phát các triệu chứng. Các liều steroid chậm, lâu dài (2,5 - 10mg/ngày) thường là cần thiết. Các liều này gây các biến chứng nặng như là hoại tử vô khuẩn của xương hông, loãng xương, đục nhân mắt, chậm tăng trưởng ở trẻ em, đái tháo đường và tăng huyết áp vì các lý do này mà steroid dùng dài hạn phải được tránh khi có thể.

Các bệnh nhân bị bệnh nặng hơn, biểu hiện bằng sụt cân nặng họặc suy dinh dưỡng phải được cho nằm viện và điều trị bằng steroid truyền tĩnh mạch (như được mô tả đối với viêm loét ruột kết). Ở các bệnh nhân có khối viêm ở bụng sờ thấy, tăng đau khi chạm vào, cần phải làm nội soi cắt lớp vi tính ổ bụng trước khi cho các steroid để loại trừ áp xe. Ngay cả khi không có áp xe được xác định, phải cho steroid một cách thận trọng với các kháng sinh phổ rộng.

Mercaptopurin. Morcaptopurin (6 - MP) được chỉ định cho các bệnh nhân với bệnh không đáp ứng, các bệnh nhân dùng steroid dài hạn, và các bệnh nhân có đường rò có triệu chứng. Nó cho phép làm giảm hoặc loại bỏ steroid cho hơn 75% và đóng các đường rò cho 30 - 40%. Liệu pháp được cho lúc đầu với liều 50mg/ngày. Phải theo dõi kiểm tra đếm máu hàng tuần trong tháng đầu, sau đó hàng tháng. Thời gian trung bình đạt tới đáp ứng triệu chứng là 3 - 6 tháng, do đó sự lựa chọn này không thích hợp với những đợt bệnh nặng lên cấp tính.

Duy trì sự thuyên giảm

Bệnh Crohn có đặc điểm là các đợt bột phát triệu chứng và thuyên giảm tái diễn. Việc dùng dài hạn sulfasalazin và corticosteroid đã cho thấy là ngăn ngừa được tái phát bệnh. Tuy nhiên các nghiên cứu sơ bộ xác minh rằng mesalamin, 800mg ba lần mỗi ngày, làm chậm lại sự tái phát lâm sàng.

Các chỉ định phẫu thuật

Hơn một nửa số bệnh nhân sẽ cần đến ít nhất là một lần làm thụ tục ngoại khoa, Các chỉ định chính về phẫu thụật là không chữa được bằng liệu pháp nội khoa, áp xe trong khoang bụng, xuất huyết ồ ạt, và tắc ruột với đoạn nghện chẹt xơ hóa. Các bệnh nhân bị viêm thể hoạt động không đáp ứng với điều trị nội khoa hoặc cần dùng dài hạn prednịson ở các liều vượt quá 15mg/ngày có thể đạt được sự thuyên giảm rõ rệt bằng phẫu thuật cắt bỏ hạn chế trọng 5 - 15 năm trước khi bệnh tái phát.

Tiên luợng

Với điều trị nội khoa và ngoại khoa đúng đắn, phần lớn các bệnh nhân có thể đối phó được với bệnh mạn tính này và các biến chứng của bệnh và sống cuộc đời hữu ích. Ít bệnh nhân chết do hậu quả trực tiếp của bệnh.

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.