- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm thực quản do thuốc viên
Một số thuoc khác nhau có thể làm tổn thương thực quản có lẽ là do tiếp xúc trực tiếp kéo dài với niêm mạc. Các thuốc có dính líu thường gặp nhất là các thuốc chống viêm không có steroid, các viên kali clorua, quinidin và các kháng sinh. Vì tổn thương rất có thể xẩy ra nếu các viên thuốc được nuốt khi đang nằm ngửa hoặc không có nước uống theo, các bệnh nhân nằm viện hoặc nằm liệt giường có nguy cơ cao hơn. Các triệu chứng bao gồm đau ngực nặng sau ức, nuốt đau và khó nuốt thường bát đầu từ vài giờ sau khi uống viên thuốc. Các triệu chứng này có thể xẩy ra đột ngột và kéo dài trong nhiều ngày. Một số bệnh nhân đặc biệt những người già) bị đau tương đối ít mà biểu lộ bằng sự khó nuốt. Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu. Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng. Lành bệnh xẩy ra nhanh khi tác nhân gây bệnh được loại trừ.
Tổn thương ăn mòn ở thực quản
Tổn thương ăn mòn ở thực quản xẩy ra do nuốt phải ngẫu nhiên (thường là trẻ em) hoặc cố ý (tự vẫn) chất kiềm (chất tẩy cổng rãnh.1..) hoặc chất acid tinh thể hoặc lỏng. Việc nuốt này gây ra hầu như lập tức sau đó bỏng nặng, các mức độ khác nhau về đau ngực, nghẹn, khó nuốt và chảy nước dãi. Việc hít phải đưa đến tiếng thở rít và thở khò khè. Các bệnh nhân này cần cấp cứu thật khẩn trương: Thăm khám ban đầu phải hướng vào trạng thái tuần hoàn và lượng giá kịp thời trạng thái đường thở) kể cả soi thanh quản. Sau đó phải thăm khám kỹ khoang miệng, ngực và bụng. Chụp X quang ngực, bụng được thực hiện để phát hiện viêm phổi không điển hình hoặc thủng thông suốt. Điều trị ban đầu là hỗ trợ, với các dịch truyền tĩnh mạch và các thuốc giảm đau. Rửa dạ dày qua mũi và các thuốc đối kháng dạng uống có thể là nguy hiểm và nói chung không được chỉ định. Phần lớn các bệnh nhân có thể được xử lý nội khoa. Nội soi thường được thực hiện trong 24 giờ đầu để lượng giá phạm vi tổn thương. Nhiều bệnh nhân được phát hiện là không có tổn thương niêm mạc thực quản hoặc dạ dày, để cho ra viện kịp thời và chuyển đi khám tâm thần. Về mặt khác, sự xuất hiện ở nội soi không đoán trước chính xác khả năng tổn thương xuyên vách và thủng, Tất cả bệnh nhân đều bị tổn thương niêm mạc do đó phải được theo dõi thận trọng trong 72 giờ đầu để tìm các dấu hiệu xấu đi. Tổn thương toàn bộ bề mặt thực quản báo trước nguy cơ tăng lên bị chít hẹp. Trước đây, các kháng sinh và các corticosteroid đã được dùng cấp cứu để cố gắng làm giảm tỷ lệ tạo nên chỗ chít hẹp, nhưng đã được thấy là không có hiệu quả. Phẫu thuật được chỉ định đối với nhiễm khuẩn huyết, sốc, thủng hoặc tình trạng xấu dần đi.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Các tổn thương ác tính ở thực quản
Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Hơi dạ dày ruột
Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.
Bệnh Crohn
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.
Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới
Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.
Tắc ruột non thực thể cấp tính
Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Táo bón
Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn
Tiêu chảy cấp tính
Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Viêm ruột kết loét
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.
Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục
Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Lao ruột: viêm ruột do lao
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
