Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

2016-11-21 05:18 PM

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Viêm thực quản do thuốc viên

Một số thuoc khác nhau có thể làm tổn thương thực quản có lẽ là do tiếp xúc trực tiếp kéo dài với niêm mạc. Các thuốc có dính líu thường gặp nhất là các thuốc chống viêm không có steroid, các viên kali clorua, quinidin và các kháng sinh. Vì tổn thương rất có thể xẩy ra nếu các viên thuốc được nuốt khi đang nằm ngửa hoặc không có nước uống theo, các bệnh nhân nằm viện hoặc nằm liệt giường có nguy cơ cao hơn. Các triệu chứng bao gồm đau ngực nặng sau ức, nuốt đau và khó nuốt thường bát đầu từ vài giờ sau khi uống viên thuốc. Các triệu chứng này có thể xẩy ra đột ngột và kéo dài trong nhiều ngày. Một số bệnh nhân đặc biệt những người già) bị đau tương đối ít mà biểu lộ bằng sự khó nuốt. Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu. Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng. Lành bệnh xẩy ra nhanh khi tác nhân gây bệnh được loại trừ.

Tổn thương ăn mòn ở thực quản

Tổn thương ăn mòn ở thực quản xẩy ra do nuốt phải ngẫu nhiên (thường là trẻ em) hoặc cố ý (tự vẫn) chất kiềm (chất tẩy cổng rãnh.1..) hoặc chất acid tinh thể hoặc lỏng. Việc nuốt này gây ra hầu như lập tức sau đó bỏng nặng, các mức độ khác nhau về đau ngực, nghẹn, khó nuốt và chảy nước dãi. Việc hít phải đưa đến tiếng thở rít và thở khò khè. Các bệnh nhân này cần cấp cứu thật khẩn trương: Thăm khám ban đầu phải hướng vào trạng thái tuần hoàn và lượng giá kịp thời trạng thái đường thở) kể cả soi thanh quản. Sau đó phải thăm khám kỹ khoang miệng, ngực và bụng. Chụp X quang ngực, bụng được thực hiện để phát hiện viêm phổi không điển hình hoặc thủng thông suốt. Điều trị ban đầu là hỗ trợ, với các dịch truyền tĩnh mạch và các thuốc giảm đau. Rửa dạ dày qua mũi và các thuốc đối kháng dạng uống có thể là nguy hiểm và nói chung không được chỉ định. Phần lớn các bệnh nhân có thể được xử lý nội khoa. Nội soi thường được thực hiện trong 24 giờ đầu để lượng giá phạm vi tổn thương. Nhiều bệnh nhân được phát hiện là không có tổn thương niêm mạc thực quản hoặc dạ dày, để cho ra viện kịp thời và chuyển đi khám tâm thần. Về mặt khác, sự xuất hiện ở nội soi không đoán trước chính xác khả năng tổn thương xuyên vách và thủng, Tất cả bệnh nhân đều bị tổn thương niêm mạc do đó phải được theo dõi thận trọng trong 72 giờ đầu để tìm các dấu hiệu xấu đi. Tổn thương toàn bộ bề mặt thực quản báo trước nguy cơ tăng lên bị chít hẹp. Trước đây, các kháng sinh và các corticosteroid đã được dùng cấp cứu để cố gắng làm giảm tỷ lệ tạo nên chỗ chít hẹp, nhưng đã được thấy là không có hiệu quả. Phẫu thuật được chỉ định đối với nhiễm khuẩn huyết, sốc, thủng hoặc tình trạng xấu dần đi.

Bài viết cùng chuyên mục

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.