Giãn phình mạch đường ruột

2016-11-26 01:14 PM

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các giãn phình mạch, còn gọi là loạn sản mạch và dị dạng động tĩnh mạch, xẩy ra ở khắp đường ruột trên và dưới. Song chúng hay xẩy ra nhất ở manh tràng và đại tràng lên ở những người già (xem bài xuất huyết dạ dày - ruột trên và dưới cấp tính). Chúng có thể là một nguyên nhâp mất máu cấp tính và mạn tính từ đường dạ dày - ruột trên và dưới. Đáng chú ý là, chúng là bẩm sinh, một phần của hội chứng di truyền, như giãn mao mạch xuất huyết di truyền hoặc liên quan với các rối loạn tự miễn dịch như bệnh xơ cứng bì.

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc. Qua thời gian, các mạng tiểu quản ở niêm mạc giãn to và trở thành mất năng lực và hình thành sự lưu thông động - tĩnh mạch. Nguyên nhân của giãn phình mạch dạ dày và ruột non chưa được rõ. Xuất huyết từ các giãn phình mạch thường liên kết với một số bệnh nội khoa, bạo gồm bệnh van tim (đặc biệt hẹp van động mạch chủ) và suy thận mạn tính. Rối loạn Von willebrand đã được phát hiện ở một số bệnh nhân, có thể tạo điều kiện cho xuất huyết.

Phát hiện lâm sàng

Xuất huyết từ giãn phình mạch có thể bộc lộ với mất máu dạ dày - ruột cấp và mạn tính. Xấp xỉ 10% các bệnh nhân bị mất máu kín đáo mạn tính hoặc cach quãng có thể đưa đến thiếu máu do thiếu sắt. Thường gặp hơn là các bệnh nhân phát triển xuất huyết dạ dày - ruột tái phát, tự hạn định, không có ý nghĩa huyết động nhưng biểu hiện bằng đại tiện ra máu đen, đại tiện ra máu đỏ tươi hoặc nôn ra máu. Ở một số bệnh nhân, xuất huyết có thể ồ ạt. Xuất huyết ở các bệnh nhân trẻ có xu hướng nhiều hơn phát sinh từ ruột non.

Đánh giá và điều trị xuất huyết dạ dày - ruột trên và dưới được thảo luận ở phần khác. Đối với các bệnh nhân với xuất huyết dạ dày - ruột dưới mạn tính và tự hết, nội soi toàn bộ là phương tiện tốt nhất để xác định giãn phình mạch ở dạ dày, tá tràng và ruột kết. Tuy nhiên, giãn phình mạch có thể được xầc định ở hơn 25% các đối tượng trên tuổi 50, điều này có nghĩa là chỉ riêng sự có mặt của chúng không thể chứng minh rằng tổn thương là nguồn của xuất huyết vì xuất huyết hoạt động hiếm được nhìn thấy. Các giãn phình mạch của ruột non là cực kỳ khó chẩn đoán. Các ống soi ruột đẩy xa đã được phát triển gần đây cho phép đánh giá nhiều về hỗng tràng. Tuy nhiên, ngay làm như vậy, một phần lớn của ruột non vẫn không thể khám xét được. Khi có yêu cầu, bệnh nhân được đưa sang phòng mổ để làm thủ thuật mở bụng và nội soi ruột non trong lúc mổ.

Điều trị

Xử trí nội khoa

Các bệnh nhân mất máu dạ dày - ruột hòn mận tính phải được cho bổ sung chất sắt. Một số bệnh nhân cần truyền máu cách quãng. Các thử nghiệm chưa được kiểm tra đã gợi ý ràng liệu pháp hormon với estrogen - progesteron (norethindron, 1mg, cộng với ethinyl estradiol, 0,05mg) làm giảm tỷ lệ bị xuất huyết tái phát và như cầu truyền máu: Một thử nghiệm được kiểm chứng mới đây đã không xác minh lợi ích nào khi dùng các estrogen kết đôi 0,625mg/ngày hoặc các viên thuốc tránh thai cho các bệnh nhân có giãn phình mạch ở ruột non.

Các liệu pháp nội soi

Các giãn phình mạch ở dạ dày, tá tràng và ruột kết có thể được xử trí bàng việc áp dụng cách đốt bề mặt (đốt bề mặt hai cực hóặc cái thông đốt nóng) hoặc bằng liệu pháp laser. Tỷ lệ các đợt xuất huyết tái phát và nhu cầu truyền máu được làm giảm đi bằng các liệu pháp này. Giãn phình mạch ở phần xa ruột non không thể dùng được các liệu pháp này.

Chụp mạch

Đối với các bệnh nhân bị xuấp huyết dạ dày - ruột dưới thể hoạt động, thường không thể thực hiện được liệu pháp nội soi ruột kết. Có thể chụp mạch mạc treo trên chọn lọc để xác định nguồn xuất huyết và kiềm chế xuất huyết cho 80% các bệnh nhân bằng vasopressin. Cũng có thể sử dụng việc gây tắc qua ống thông chỗ giãn phình mạch xuất huyết nhưng dễ gây biến chứng nhồi máu ruột kết ở 15% các bệnh nhân.

Phẫu thuật

Cắt bỏ nửa ruột kết bên phải được thực hiện cho những bệnh nhân bị tái phát xuất huyết do giãn phình mạch ruột kết đã được loại bỏ bằng nội soi không kết quả hoặc ở những bệnh nhân xuất huyết nặng không thể kiềm chế được bằng chụp mạch, ở nơi nào có điều kiện, rất nên định vị nguồn xuất huyết ở đại tràng phải bằng chụp mạch, chụp nhấp nháy, hoặc nội soi ruột kết trước khi mổ. Vì phần lớn các bệnh nhân là người già và có đồng thời các bệnh nội khoa, phẫu thuật có nguy cơ cao. Trong gàn 25% số bệnh nhân, xuất huyết tái phát sau mổ từ các giãn phình mạch ở đường dạ dày - ruột trên. Đối với các bệnh nhân với xuất huyết tái phát do giãn phình mạch ruột non, việc cắt bỏ có thể đem lại lợi ích nếu chụp mạch trước mổ có thể định vị được một tổn thương xuất huyết duy nhất. Để thay thế trong lựa chọn nội soi trong lúc mổ với cắt bỏ hoặc khâu các mạch giãn phình có thể là cần thiết.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.