- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Giãn phình mạch đường ruột
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các giãn phình mạch, còn gọi là loạn sản mạch và dị dạng động tĩnh mạch, xẩy ra ở khắp đường ruột trên và dưới. Song chúng hay xẩy ra nhất ở manh tràng và đại tràng lên ở những người già (xem bài xuất huyết dạ dày - ruột trên và dưới cấp tính). Chúng có thể là một nguyên nhâp mất máu cấp tính và mạn tính từ đường dạ dày - ruột trên và dưới. Đáng chú ý là, chúng là bẩm sinh, một phần của hội chứng di truyền, như giãn mao mạch xuất huyết di truyền hoặc liên quan với các rối loạn tự miễn dịch như bệnh xơ cứng bì.
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc. Qua thời gian, các mạng tiểu quản ở niêm mạc giãn to và trở thành mất năng lực và hình thành sự lưu thông động - tĩnh mạch. Nguyên nhân của giãn phình mạch dạ dày và ruột non chưa được rõ. Xuất huyết từ các giãn phình mạch thường liên kết với một số bệnh nội khoa, bạo gồm bệnh van tim (đặc biệt hẹp van động mạch chủ) và suy thận mạn tính. Rối loạn Von willebrand đã được phát hiện ở một số bệnh nhân, có thể tạo điều kiện cho xuất huyết.
Phát hiện lâm sàng
Xuất huyết từ giãn phình mạch có thể bộc lộ với mất máu dạ dày - ruột cấp và mạn tính. Xấp xỉ 10% các bệnh nhân bị mất máu kín đáo mạn tính hoặc cach quãng có thể đưa đến thiếu máu do thiếu sắt. Thường gặp hơn là các bệnh nhân phát triển xuất huyết dạ dày - ruột tái phát, tự hạn định, không có ý nghĩa huyết động nhưng biểu hiện bằng đại tiện ra máu đen, đại tiện ra máu đỏ tươi hoặc nôn ra máu. Ở một số bệnh nhân, xuất huyết có thể ồ ạt. Xuất huyết ở các bệnh nhân trẻ có xu hướng nhiều hơn phát sinh từ ruột non.
Đánh giá và điều trị xuất huyết dạ dày - ruột trên và dưới được thảo luận ở phần khác. Đối với các bệnh nhân với xuất huyết dạ dày - ruột dưới mạn tính và tự hết, nội soi toàn bộ là phương tiện tốt nhất để xác định giãn phình mạch ở dạ dày, tá tràng và ruột kết. Tuy nhiên, giãn phình mạch có thể được xầc định ở hơn 25% các đối tượng trên tuổi 50, điều này có nghĩa là chỉ riêng sự có mặt của chúng không thể chứng minh rằng tổn thương là nguồn của xuất huyết vì xuất huyết hoạt động hiếm được nhìn thấy. Các giãn phình mạch của ruột non là cực kỳ khó chẩn đoán. Các ống soi ruột đẩy xa đã được phát triển gần đây cho phép đánh giá nhiều về hỗng tràng. Tuy nhiên, ngay làm như vậy, một phần lớn của ruột non vẫn không thể khám xét được. Khi có yêu cầu, bệnh nhân được đưa sang phòng mổ để làm thủ thuật mở bụng và nội soi ruột non trong lúc mổ.
Điều trị
Xử trí nội khoa
Các bệnh nhân mất máu dạ dày - ruột hòn mận tính phải được cho bổ sung chất sắt. Một số bệnh nhân cần truyền máu cách quãng. Các thử nghiệm chưa được kiểm tra đã gợi ý ràng liệu pháp hormon với estrogen - progesteron (norethindron, 1mg, cộng với ethinyl estradiol, 0,05mg) làm giảm tỷ lệ bị xuất huyết tái phát và như cầu truyền máu: Một thử nghiệm được kiểm chứng mới đây đã không xác minh lợi ích nào khi dùng các estrogen kết đôi 0,625mg/ngày hoặc các viên thuốc tránh thai cho các bệnh nhân có giãn phình mạch ở ruột non.
Các liệu pháp nội soi
Các giãn phình mạch ở dạ dày, tá tràng và ruột kết có thể được xử trí bàng việc áp dụng cách đốt bề mặt (đốt bề mặt hai cực hóặc cái thông đốt nóng) hoặc bằng liệu pháp laser. Tỷ lệ các đợt xuất huyết tái phát và nhu cầu truyền máu được làm giảm đi bằng các liệu pháp này. Giãn phình mạch ở phần xa ruột non không thể dùng được các liệu pháp này.
Chụp mạch
Đối với các bệnh nhân bị xuấp huyết dạ dày - ruột dưới thể hoạt động, thường không thể thực hiện được liệu pháp nội soi ruột kết. Có thể chụp mạch mạc treo trên chọn lọc để xác định nguồn xuất huyết và kiềm chế xuất huyết cho 80% các bệnh nhân bằng vasopressin. Cũng có thể sử dụng việc gây tắc qua ống thông chỗ giãn phình mạch xuất huyết nhưng dễ gây biến chứng nhồi máu ruột kết ở 15% các bệnh nhân.
Phẫu thuật
Cắt bỏ nửa ruột kết bên phải được thực hiện cho những bệnh nhân bị tái phát xuất huyết do giãn phình mạch ruột kết đã được loại bỏ bằng nội soi không kết quả hoặc ở những bệnh nhân xuất huyết nặng không thể kiềm chế được bằng chụp mạch, ở nơi nào có điều kiện, rất nên định vị nguồn xuất huyết ở đại tràng phải bằng chụp mạch, chụp nhấp nháy, hoặc nội soi ruột kết trước khi mổ. Vì phần lớn các bệnh nhân là người già và có đồng thời các bệnh nội khoa, phẫu thuật có nguy cơ cao. Trong gàn 25% số bệnh nhân, xuất huyết tái phát sau mổ từ các giãn phình mạch ở đường dạ dày - ruột trên. Đối với các bệnh nhân với xuất huyết tái phát do giãn phình mạch ruột non, việc cắt bỏ có thể đem lại lợi ích nếu chụp mạch trước mổ có thể định vị được một tổn thương xuất huyết duy nhất. Để thay thế trong lựa chọn nội soi trong lúc mổ với cắt bỏ hoặc khâu các mạch giãn phình có thể là cần thiết.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Bệnh trĩ
Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Tiêu chảy mạn tính
Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).
Túi thừa và các khối u lành tính thực quản
Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein
Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột
Viêm túi thừa Meckel
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.
Chứng khó tiêu
Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng
Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Sốt địa trung hải gia đình
Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình
Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.
Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác
Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Táo bón
Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn
Bệnh loét tiêu hóa:
Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.