- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các yếu tố thiết yếu của chẩn đoán
Không có xuất huyết dạ dày - ruột lộ rõ (đại tiện máu tươi, đại tiện máu đen).
Được phát hiện do xét nghiệm tìm máu kín đáo trong phân hoặc thiếu máu do thiếu sắt ở người lớn mà không có nguồn mất máu nào cả.
Đánh giá ruột kết bằng nội soi ruột kết hoặc thụt barit là bắt buộc.
Đánh giá đường dạ dày - ruột trên bằng nội soi hoặc chụp X quang ruột loạt đường dạ dày - ruột trên với barit.
Cân nhắc chung
Xuất huyết dạ dày - ruột kín đáo là mất các khối lượng máu nhỏ theo đường dạ dày - ruột không lộ rõ cho bệnh nhân biết vì nó không đưa tới các dấu hiệu rõ ràng về đại tiện máu tươi, đại tiện máu đen hoặc nôn ra máu. Xuất huyết dạ dày - ruột kín đáo được phát hiện một cách điển hình ở một trong hai hoàn cảnh là: (1) test tìm máu kín đáo trong phân dương tính hoặc (2) thiếu máu do thiếu sắt xuất hiện ở người lớn.
Test tìm máu kín đáo trong phân
Nhiều bệnh nhân trên 50 tuổi được làm test thường lệ hàng năm các mẫu phân để tìm máu kín đáo nhằm kiểm tra các khối u ruột kết - trực tràng (xem kiểm tra ung thư ruột kết - trực tràng).
Gần 10% các bệnh nhân trong các chương trình kiểm tra sẽ có test máu kín đáo dương tính chứng tỏ sự cần thiết của điều tra về ruột kết để loại trừ ung thư biểu mô, Giá trị tiên đoán dương tính của test guaiac dương tính chỉ là 2 - 6%.
Thiếu máu do thiếu sắt
Ở xã hội phương Tây, nam giới và nữ giối sau mãn kinh bị thiếu máu do thiếu sắt phải được coi như là có chảy máu kín đáo đường dạ dày - ruột trừ phi một nguyên nhân thiếu máu khác là rõ ràng thấy được. Các nguyên nhân dinh dưỡng của thiếu sắt là không thông thường ở xã hội phương Tây. Khả năng các nguyên nhân dạ dày - ruột gây mất máu có thể xác định ở trên 60% các bệnh nhân thiếu sắt từ cả đường dạ dày - ruột trên và dưới. Ung thư ruột kết - trực tràng có ở 10%.
Các nguyên nhận mất máu kín đáo
Các nguyên nhân thông thường nhất gây chảy mặu dạ dày - ruột kín đáo tương tự với các nguyên nhân xuất huyết lộ rõ về mặt lâm sàng. Chúng bạo gồm:
Các khối u (các ung thư ruột kết - trực tràng và cạc polip ruột kết trực tràng, các ung thư dạ dày, các u lympho), (2) các nhiễm khuẩn (các loại giun, đặc biệt giun móc, bệnh amip, lao), (3) các bệnh mạch máu (giãn phình mạch, loạn sản mạch, bệnh dạ dày do tăng áp lực tĩnh mạch cửa); (4) các tổn thương acid - tiêu hóa (loét tiêu hóa, viêm thực quản trào ngược, thoát vị thực quản với các chỗ chầy xước, (5) các thuốc (nhất là các thuốc kháng viêm không phải steroid, aspirin hoặc thuốc chống đông máu), và (6) các nguyên nhân khác như bệnh ruột do viêm và các rối loạn kém hấp thu.
Đánh giá
Nội soi phần trên
Các bệnh nhân phải được hỏi về các triệu chứng như ợ nóng, khó tiêu, buồn nôn, nôn, sụt cân, no sớm, tiêu chảy, táo bón hoặc thay đổi thói quen đại tiện, ở các bệnh nhân dưới 50 tuổi với các triệu chứng rõ ràng liên quan với đường tiêu hóa trên, điều hợp lý tiến hành trước tiên với nội soi phần trên để tìm nguồn xuất huyết cấp tính hoặc mạn tính, ở các bệnh nhân không có triệu chứng với các test máu kín đáo trong phân dương tính mà các đánh giá ruột kết là âm tính thì không cần phải đánh giá đường dạ dày - ruột trên. Nếu có thiếu máu do thiếu sắt, các bệnh nhân phải trải qua nộị soi phần trên sau nội soi ruột kết. Nếu không có bất thường đáng kể thì phải làm sinh thiết ruột non trong khi làm nội soi để loại trừ bệnh tiêu chảy nhiệt đới (spru) và các rối loạn kém hấp thu khác.
Nội soi ruột kết so với thụt Baril
Ở hầu như tất cả các bệnh nhân có test máu kín đáo dương tính hoặc thiếu máu đo thiếu sắt, phải đánh giá ruột kết trước tiến hoặc bằng nội soi ruột kết hoặc bằng sự phối hợp thụt barit với nội soi đại tràng sigma (nội soi này cần để xem xét trực tràng và đại tràng sigma ở phần xa một cách đầy đủ). Nội soi ruột kết phát hiện trên 95% các polip hoặc ung thư ruột ket trực tràng, và các polip phát hiện được trong khi nội soi này được loại bỏ bằng thắt thòng lọng. Các thăm khám thụt barit chỉ có 85 - 90% độ nhậy đối với các polip ruột kết - trực tràng và đến 30 - 40% các bệnh nhân với test máu kín đáo dương tính sẽ được phát hiện có polip khi thụt barit hoặc nội soi đại tràng sigma, sau đó nội soi ruột kết để loại bỏ polip. Như vậy, mặc dầu nội soi ruột kết tốn kém hơn thụt barit, giá phí chung của hai chiến lược chẩn đoán là xấp xỉ như nhau. Giải pháp tốt nhất phụ thuộc vào kinh nghiệm chuyên môn tại chỗ và các giá phí (xem phần về các polip dạng u tuyến).
Đánh giá về ruột non
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên, ở các bệnh nhân với mất máu dạ dày - ruột mạn tính dai dẳng, cần phải đánh giá thêm về một nguồn mất máu ở ruột non. Một nghiên cứu nhỏ thành cản quang vào ruột là có ích để phát hiện các bệnh niêm mạc như là bệnh Crohn. Nội soi ruột non hiện nay luôn được làm ở nhiều trung tâm và cho phép nhìn thấy một phần ba tới một nửa ở phần trên của ruột non để tìm ra giãn mạch. Hiếm khi cần phải chụp mạch hoặc nội soi toàn bộ ruột non trong khi mổ.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính
Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng
Hơi dạ dày ruột
Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.
Táo bón
Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn
Không giãn co thắt thực quản dưới
Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng
Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Viêm túi thừa Meckel
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn
Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.
Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein
Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột
Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng
Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập
Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
