Tại sao bức xạ gây ra ung thư vú?

2018-08-04 06:29 PM
Các tác giả đề nghị rằng các chuyên gia có thể sử dụng mức PTEN trong u vú như một dấu ấn sinh học để dự đoán ung thư vú nào có khả năng phản ứng với điều trị bức xạ nhất

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Phát hiện phân tử có thể giải thích tại sao một số trường hợp ung thư vú không đáp ứng với xạ trị. Nó cũng có thể dẫn đến các phương pháp điều trị bổ sung để cải thiện phản ứng trong những trường hợp đó.

Kết quả của nghiên cứu mới, mà Đại học Y khoa Nam Carolina ở Charleston đứng đầu, hiện đã xuất hiện trên tạp chí Nature Communications.

Những phát hiện này cung cấp bằng chứng rõ ràng về lý do tại sao một số phụ nữ "có thể dễ mắc bệnh ung thư vú do bức xạ."

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng khi mức protein ức chế khối u gọi là phosphatase và homolog homolog (PTEN) thấp trong mô vú gọi là stroma, nó làm tăng khả năng phơi nhiễm phóng xạ sẽ kích thích sự phát triển của khối u.

Họ cũng phát hiện ra việc ngăn chặn một phân tử khác gọi là thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) có thể là để giảm nguy cơ.

Các tác giả đề nghị rằng các chuyên gia có thể sử dụng mức PTEN trong u vú như một dấu ấn sinh học để dự đoán ung thư vú nào có khả năng phản ứng với điều trị bức xạ nhất.

Michael C. Ostrowski, một giáo sư tại Khoa Hóa sinh và Sinh học Phân tử thuộc Đại học Y khoa Nam Carolina, cho biết: “Điều này cho phép,” cho một cuộc tấn công đa hướng trên khối u, bằng cách dự đoán ai sẽ đáp ứng tốt nhất với xạ trị kết hợp với hóa trị và các phương pháp điều trị nhắm mục tiêu khác”.

Ung thư vú và mô stroma

Ung thư phát triển khi tế bào phát triển bất thường và hình thành khối u. Khi khối u tiến triển, các tế bào có thể phá vỡ và thiết lập các khối u thứ phát ở các bộ phận khác của cơ thể. Các tế bào của khối u thứ phát mang dấu ấn của các tế bào trong khối u chính.

Hầu hết bệnh ung thư vú bắt đầu ở các tế bào biểu mô. Ví dụ, trong vú, nó tạo thành các tuyến tạo sữa và các ống dẫn mang sữa.

Vú cũng bao gồm một loại mô gọi là stroma, đóng vai trò "liên kết và hỗ trợ". Nó đã được chứng minh rằng các tế bào stroma lành có thể được "lập trình lại" để giúp khối u phát triển và lan rộng.

Tại Hoa Kỳ, ung thư vú là ung thư được chẩn đoán thường xuyên nhất ở phụ nữ và là nguyên nhân thứ hai gây tử vong do ung thư ở phụ nữ.

Trong năm 2015, là năm gần đây nhất cho số liệu thống kê chính thức, đã có 125 trường hợp ung thư vú mới và 20 ca tử vong do căn bệnh này trên 100.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ.

PTEN thấp làm tăng nguy cơ

Trong công trình trước đây, các nhà nghiên cứu đã mô tả cách PTEN ức chế sự phát triển khối u. Một cách mà nó thực hiện điều này là thông qua hiệu ứng của nó trên một "promoter tăng trưởng tế bào" được gọi là hoạt động protein kinase B (AKT). Khi mức PTEN thấp, AKT tăng. Nhưng cho đến khi nghiên cứu mới, không rõ chuyện này đã xảy ra như thế nào.

Các nhà nghiên cứu đã phát triển một mô hình chuột cho phép họ điều tra những gì xảy ra khi mức PTEN thấp trong mô stroma vú. Họ tạo những con chuột thiếu gen mã hóa cho chất ức chế khối u.

Họ phát hiện ra rằng u tuyến vú của những con chuột không có khối u làm cho các tế bào của biểu mô gần đó trở nên không ổn định về mặt di truyền khi tiếp xúc với bức xạ. Bất ổn di truyền là tiền thân của ung thư.

Họ cũng phát hiện ra rằng một liều phóng xạ là đủ để tạo ra một loại tăng trưởng bất thường ở vú được gọi là "tăng sản lobuloalveolar vú trung tâm".

Bức xạ là kích hoạt tương tác thứ hai

Điều tra thêm cho thấy sự kích thích cho sự tăng trưởng bất thường là protein EGFR, và việc ngăn chặn protein ngăn chặn sự thay đổi tế bào dẫn đến sự tăng trưởng bất thường.

Nhóm nghiên cứu sau đó đã phân tích các mẫu mô vú được lấy từ những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật giảm vú. Họ phát hiện ra ung thư vú có nhiều khả năng trở lại ở những bệnh nhân có mô vú không có PTEN.

Các tác giả lưu ý rằng không có khả năng mất PTEN do chính nó gây nên sự hình thành khối u. Họ cho rằng nó có nhiều khả năng là một tương tác thứ hai - chẳng hạn như tiếp xúc với bức xạ - là kích hoạt cho những thay đổi tế bào làm tăng nguy cơ ung thư.

Bài viết cùng chuyên mục

Vắc xin Covid-19: biến chứng hội chứng Guillain-Barre sau tiêm chủng

Tại Hoa Kỳ, đã có 100 báo cáo sơ bộ về hội chứng Guillain-Barre trong số những người nhận Ad26.COV2.S sau khoảng 12,5 triệu liều, một tỷ lệ gần gấp năm lần tỷ lệ nền.

Thể dục và tuổi thọ: bài tập quá nhiều có gây hại không?

Thể dục nhịp điệu là thứ mà hầu hết bệnh nhân có thể kiểm soát, và chúng tôi thấy trong nghiên cứu của chúng tôi không có giới hạn về tập thể dục quá nhiều

Đánh giá tính cách người dựa trên hình dạng cơ thể

Một nghiên cứu mới, được công bố trên tạp chí Khoa học tâm lý, điều tra các đặc điểm tính cách mà mọi người có xu hướng liên kết với các hình dạng cơ thể cụ thể

Covid-19: thuốc chống huyết khối và tương tác thuốc

Chloroquine và hydroxychloroquine là những chất ức chế CYP2D6 và P-glycoprotein vừa phải. Chúng có ít tương tác với apixaban và rivaroxaban, nhưng cần thận trọng khi dùng chung với dabigatran và edoxaban.

Năm cách để ngăn ngừa và làm chậm viêm khớp

Đơn giản hóa và tổ chức các thói quen để giảm thiểu các chuyển động khó hoặc đau đớn, giữ các vật dụng cần để nấu ăn, dọn dẹp hoặc sở thích gần nơi cần thiết

Những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 có thể ngừng dùng metformin không?

Metformin là một loại thuốc uống giúp kiểm soát tác động của bệnh tiểu đường tuýp 2, ở những người bị tiền tiểu đường, thuốc cũng có thể giúp ngăn ngừa hoặc trì hoãn sự khởi đầu

Điều trị tăng huyết áp: lời khuyên gợi ý mới cho các bác sĩ

Dường như không có giới hạn thấp hơn bình thường của huyết áp tâm trương và không có bằng chứng trong phân tích di truyền này cho thấy huyết áp tâm trương có thể quá thấp.

Đổ mồ hôi ban đêm: những điều cần biết

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến các nguyên nhân phổ biến gây ra mồ hôi ban đêm và bất kỳ phương pháp điều trị tiềm năng nào

Kem đánh răng: thành phần liên quan đến kháng kháng sinh

Triclosan có đặc tính kháng khuẩn và được tìm thấy trong xà phòng, chất tẩy rửa, đồ chơi, nó cũng thấy trong một số nhãn hiệu kem đánh răng

Dịch truyền tĩnh mạch mang oxy: truyền máu

Một mục tiêu chính, của nghiên cứu hồi sức, là phát triển một chất thay thế tế bào hồng cầu an toàn, làm tăng việc cung cấp oxy đến các mô

Dùng Aspirin hàng ngày không tạo ra cuộc sống dài hơn khi không có bệnh

Những phát hiện ban đầu này sẽ giúp làm rõ vai trò của aspirin trong phòng ngừa bệnh cho người lớn tuổi, nhưng nhiều hơn nữa cần phải được nghiên cứu

Rối loạn lo âu sau đột quỵ: chẩn đoán và can thiệp

Rối loạn lo âu sau đột quỵ, có thể hôn mê, với chứng trầm cảm sau đột quỵ, và có thể phổ biến hơn ở vỏ não, so với đột quỵ dưới vỏ não

Dịch truyền tĩnh mạch: dung dịch hồi sức mang oxy

Dung dịch tăng thể tích mang oxy, là tác nhân hồi sức đáng mong đợi nhất, bởi vì chúng làm tăng thể tích huyết tương, cải thiện quá trình oxy hóa mô

Đau vai do thần kinh bị chèn ép: điều gì đang xẩy ra?

Bác sĩ thường sẽ khuyên nên điều trị nội khoa đầu tiên, nếu cơn đau không đáp ứng với những cách điều trị này hoặc trở nên tồi tệ hơn, thì bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật

Đau mông khi mang thai: những điều cần biết

Khi thai nhi và tử cung phát triển, chúng gây áp lực lên hông, lưng và mông, đau mông cũng có thể xuất phát từ các biến chứng thai kỳ và các vấn đề y tế không liên quan

Ích kỷ bệnh lý: điều gì thúc đẩy từ bệnh lý tâm thần?

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng tìm ra chính xác những gì diễn ra bên trong bộ não của những người vô cùng tự tin nhưng vô cảm này

Lựa chọn điều trị tiểu đường loại 2 tốt nhất: các yếu tố cần xem xét

Quản lý nó hiệu quả, có nghĩa là sử dụng nhiều chiến lược giảm rủi ro, đồng thời đạt được mục tiêu kiểm soát lượng đường trong máu

Nồng độ CO2 và O2: khẩu trang có tác động tiêu cực không đáng kể

Khẩu trang đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm tiếp xúc với vi rút và hạn chế số lượng vi rút mà một người có thể lây sang người khác. Ngày càng có sự đồng thuận về giá trị của khẩu trang trong việc giảm sự lây lan của SARS-CoV-2.

Vắc xin Covid-19 AstraZeneca: tính sinh miễn dịch hiệu quả và an toàn

Vắc xin này dựa trên vectơ adenovirus tinh tinh không có khả năng sao chép biểu hiện protein đột biến. Nó được tiêm bắp và được đánh giá là hai liều cách nhau 4 đến 12 tuần.

Huyết áp cao: tất cả mọi điều cần biết

Những người được chẩn đoán bị cao huyết áp nên kiểm tra huyết áp thường xuyên, ngay cả khi là bình thường, nên kiểm tra nó ít nhất một lần mỗi năm năm

Âm đạo: sâu bao nhiêu và những điều cần biết

Theo một nghiên cứu, độ sâu trung bình của âm đạo là khoảng 9,6 cm. Các nguồn khác gợi ý rằng phạm vi kích thước trung bình có thể khoảng 7,6–17,7 cm. Tuy nhiên, những thay đổi về kích thước này thường không rõ ràng.

Thuốc huyết áp: mọi thứ cần biết

Bác sĩ kê đơn nào sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân cơ bản của bệnh tăng huyết áp, cũng như tình trạng hiện tại của họ và các loại thuốc thông thường khác

Phụ thuộc nicotine (nghiện thuốc lá) là gì?

Triệu chứng cai nghiện, bao gồm cảm giác thèm ăn, ủ rũ và khó chịu, tập trung kém, tâm trạng chán nản, tăng sự thèm ăn và mất ngủ, tiêu chảy hoặc táo bón cũng có thể xảy ra

Vắc xin Covid-19 Sputnik V (Gam-COVID-Vac): tính sinh miễn dịch hiệu quả và an toàn

Theo phân tích tạm thời của một thử nghiệm giai đoạn III, vắc-xin này có 91,6% (95% CI 85,6-95,2) hiệu quả trong việc ngăn ngừa COVID-19 có triệu chứng bắt đầu từ 21 ngày sau liều đầu tiên.

Thử thai: những điều cần biết

Mang thai được chẩn đoán bằng cách đo mức độ gonadotropin màng đệm của người, còn được gọi là hormone thai kỳ, hCG được sản xuất khi trứng được thụ tinh