Đau (Pain)

2012-11-19 02:33 PM
Liệu pháp nhận thức-hành vi liên quan tới hàng loạt những kỹ năng đối phó đa dạng và các phương pháp thư giãn nhằm giúp người bệnh chuẩn bị tinh thần và đối phó với cơn đau.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đau là một cảm giác bình thường được xuất phát từ hệ thần kinh nhằm cảnh báo cho quý vị về chấn thương có thể xảy ra và nhu cầu chăm sóc cho bản thân. Đau cấp tính thường có nguyên nhân từ căn bệnh đột ngột, tình trạng viêm tấy hoặc tổn thương các mô. Thường thì nguyên nhân của đau cấp tính có thể được chẩn đoán và điều trị và tình trạng đau được giới hạn diễn ra trong một khoảng thời gian quy định với một mức độ trầm trọng nhất định.

Đau mạn tính không bao giờ chấm dứt – nó diễn ra dai dẳng trong một khoảng thời gian lâu hơn đau cấp tính và kháng được hầu hết các phương pháp điều trị y khoa. Những tín hiệu đau liên tục kích thích vào hệ thống thần kinh trong nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm sau sự việc không may gây đau đớn ban đầu. Có thể có nguyên nhân tiếp diễn gây nên đau -- viêm khớp, ung thư, nhiễm trùng tai, v.v. -- nhưng một số người lại chịu đau mạn tính dù trước đó không bị bất cứ chấn thương hoặc tổn thương nào tới cơ thể. Trớ trêu thay, đau mạn tính thường đi kèm với những tình trạng tê liệt.

Đau là một nhận thức phức tạp và có sự khác nhau lớn giữa nhận thức về đau của người này và người khác, kể cả ở những người nhìn có vẻ có những chấn thương hoặc bệnh tật giống nhau. Những người mắc bệnh tê liệt thường gặp phải tình trạng được gọi là đau do thần kinh (có nguyên nhân từ tình trạng tổn thương dây thần kinh trong cơ thể hoặc tủy sống hoặc chính bộ não). Uống thuốc, châm cứu, kích thích điện cục bộ, kích thích não và phẫu thuật là một số phương pháp điều trị đau mạn tính. Liệu pháp tâm lý, thư giãn kết hợp với uống thuốc, phản hồi sinh học và sửa đổi hành vi cũng có thể được áp dụng để chế ngự cơn đau.

Mục đích của việc kiểm soát đau là nhằm cải thiện chức năng, giúp những người mắc bệnh có thể đi làm, đi học hoặc tham gia các hoạt động trong ngày khác. Dưới đây là một số trong những phương pháp điều trị phổ biến nhất:

Thuật châm cứu có nguồn gốc từ Trung Quốc hơn 2.500 năm trước và là thuật chữa bệnh bằng cách châm kim vào các huyệt đạo trên cơ thể. Mặc dù người ta vẫn đang tranh cãi về phương pháp cứu chữa bệnh của thuật châm cứu nhưng đây là một thuật chữa bệnh khá phổ biến và có thể một ngày nào người ta chứng minh được thuật châm cứu có hiệu quả đối với nhiều loại bệnh lý khác nhau vì nó vẫn đang được tiếp tục khám phá.

Thuốc giảm đau là thuật ngữ chỉ nhóm các loại thuốc bao gồm phần lớn các thuốc làm giảm đau nhức, ví dụ như thuốc aspirin, acetaminophen, và ibuprofen. Các loại thuốc làm dịu cơn đau không theo toa bác sĩ hoặc người bệnh tự mua thường được sử dụng để làm giảm đau từ nhẹ tới trung bình.

Thuốc kháng co giật được sử dụng để điều trị những rối loạn động kinh nhưng đôi khi nó cũng là thuốc được kê toa để điều trị đau. Đặc biệt thuốc Carbamazepine (thuốc chống co giật) được sử dụng để điều trị một số bệnh lý gây đau đớn, gồm cả chứng đau dây thần kinh ba. Một loại thuốc chống động kinh khác là gabapentin hiện đang được nghiên cứu về những đặc tính làm giảm đau của nó, đặc biệt là được dùng để điều trị chứng đau do thần kinh.

Các thuốc chống suy nhược đôi khi cũng được sử dụng để điều trị cơn đau. Ngoài ra, các thuốc an thần được gọi là benzodiazepine cũng có tác dụng như là những chất làm dịu bắp thịt và đôi khi được sử dụng làm thuốc giảm đau.

Phản hồi sinh học được sử dụng để điều trị nhiều vấn đề đau nhức thường gặp. Người ta sử dụng máy điện tử đặc biệt để giúp người bệnh nhận thức được, làm theo và lấy được khả năng kiểm soát một số chức năng nhất định của cơ thể, bao gồm tình trạng căng cơ, nhịp tim, và nhiệt độ da. Sau đó người bệnh có thể biết được cách thực hiện một sự thay đổi trong những phản ứng của họ đối với cơn đau, ví dụ như sử dụng các kỹ thuật thư giãn.

Capsaicin là một hóa chất được tìm thấy trong ớt và ớt cũng là thành phần chính trong các kem thoa giảm đau.

Thuật chữa bệnh bằng phương pháp nắn xương là việc dùng tay tác động lên cột sống, thường là để làm dịu đau lưng. Đây là một phương pháp gây tranh luận từ xưa tới nay. Nói chung, lợi ích của thuật nắn xương với tư cách là một phương thức điều trị cho bệnh đau lưng bị hạn chế vào một nhóm những người bị đau lưng dưới cấp tính không phức tạp mà họ có thể cảm thấy dịu đau qua công đoạn mát xoa của liệu pháp.

Liệu pháp nhận thức-hành vi liên quan tới hàng loạt những kỹ năng đối phó đa dạng và các phương pháp thư giãn nhằm giúp người bệnh chuẩn bị tinh thần và đối phó với cơn đau.

Tư vấn có thể mang đến cho người đang phải chịu đựng đau đớn nhiều sự hỗ trợ cần thiết, cho dù đó là lời tư vấn từ gia đình, nhóm hỗ trợ, hay từ người khác. Các nhóm hỗ trợ có thể đóng vai trò bổ sung quan trọng trong quá trình điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật.

Các thuốc kháng viêm phi steroid (Nonsteroidal anti-inflammatory drugs - NSAIDs) thuộc nhóm các thuốc làm giảm đau COX-2 inhibitors ("siêu aspirin") hoạt động bằng cách ngăn chặn hai en-zim, cyclooxygenase-1 và cyclooxygenase-2, cả hai en-zim này thúc đẩy quá trình sản xuất các hóc-môn hormones có tên prostaglandin vốn là nguyên nhân gây nên tình trạng viêm tấy, sốt, và đau nhức. Các loại thuốc mới hơn, có tên là COX-2 inhibitors, chủ yếu ngăn chặn cyclooxygenase-2 và ít mang lại các tác dụng phụ cho dạ dày-ruột hơn NSAIDs. Vào năm 1999, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (Food and Drug Administration) đã chấp thuận hai loại thuốc COX-2 inhibitors-rofecoxib (Vioxx) và celecoxib (Celebrex).

Phương pháp điều trị kích thích điện, bao gồm kích thích điện xuyên qua da (TENS), kích thích điện thần kinh dưới da, và kích thích não hoặc tủy sống sâu, là những phương pháp mở rộng hiện đại của những liệu pháp điều trị bệnh lâu đời mà khi thực hiện các dây thần kinh ở các cơ chịu hàng loạt các kích thích khác nhau, kể cả nhiệt hoặc xoa bóp. Không phải người bệnh nào cũng được áp dụng phương pháp kích thích điện, hay phương pháp này không đạt hiệu quả 100 phần trăm. Những kỹ thuật dưới đây hiện đang được áp dụng đều có những yêu cầu riêng đối với trang thiết bị chuyên dụng và nhân sự được đào tạo về quy trình cụ thể:

* Kỹ thuật TENS sử dụng các mạch điện nhỏ xíu, xuyên qua da tới các sợi thần kinh, để gây nên những sự thay đổi đối với các cơ, ví dụ như tê liệt hay co thắt. Kết quả của quá trình này giúp người bệnh bớt đau tạm thời. 
* Kỹ thuật kích thích tủy sống sử dụng các điện cực được đưa vào khoang trên màng cứng của tủy sống qua phẫu thuật. Người bệnh có khả năng phát ra một xung điện tới tủy sống sử dụng một thiết bị nhận xung điện giống như chiếc hộp nhỏ và một ăng-ten được dính vào da. 
* Kích thích não sâu được xem là một phương pháp điều trị cực đoan và cần phải thực hiện kích thích não bằng phẫu thuật, thường là đồi thị. Phương pháp được thực hiện cho một số bệnh lý, bao gồm đau dữ dội, hội trứng đau trung ương, đau do ung thư, đau chi ma quái (phantom limb pain), và những tình trạng đau do thần kinh khác.

Tập thể dục: Do mối quan hệ giữa nhiều kiểu đau mạn tính và hiện tượng cơ yếu và bị căng đã rõ ràng nên tập thể dục, cho dù ở mức độ đi bộ nhẹ nhàng tới trung bình hay bơi, sẽ có thể góp phần đem lại cảm giác khỏe khoắn chung nhờ tăng lưu thông khí huyết vào cơ bắp. Như chúng ta đều biết tình trạng căng thẳng cũng góp phần làm tăng sự đau đớn, đồng thời chúng ta cũng biết rằng luyện tập, ngủ, và thư giãn đều có thể giúp làm giảm căng thẳng, từ đó làm dịu cơn đau.

Giấc ngủ nhân tạo, lần đầu tiên được chấp nhận là một phương thức điều trị y khoa vào năm 1958, tiếp tục phát triển rộng rãi, nhất là được áp dụng như là một phương thức bổ trợ cho quá trình chế ngự đau bằng thuốc. Nói chung, phương thức giấc ngủ nhân tạo được sử dụng để kiểm soát chức năng hoặc phản ứng vật lý, hay nói cách khác, mức đau đớn mà người bệnh có thể chịu đựng. Giấc ngủ nhân tạo có thể làm giảm đau bằng cách tác động đến cách hóa chất trong hệ thần kinh, làm chậm các xung nhịp.

Thỉnh thoảng một số nhà điều trị liệu pháp vật lý còn dùng các tia lade tần thấp để điều trị cơn đau, nhưng cũng giống như nhiều phương thức điều trị khác, phương pháp này luôn gây nhiều tranh cãi.

Nam châm: Thường xuyên đeo nam châm vào cổ áo hoặc cổ tay như là một phương thức điều trị bệnh có nguồn gốc từ Người Ai Cập và Hy Lạp cổ. Mặc dù phương thức này thường bị những người theo chủ nghĩa hoài nghi bác bỏ vì cho đó là lăng băm và ngụy khoa học nhưng những người đề xuất đưa ra một học thuyết chứng minh rằng nam châm có thể ảnh hưởng đến những thay đổi trong các tế bào và do đó làm giảm cơn đau.

Các khối dây thần kinh tiếp nhận tác động của các loại thuốc, các tác nhân hóa học hoặc các kỹ thuật phẫu thuật để làm gián đoạn quá trình truyền tiếp các thông điệp đau giữa các vùng cụ thể của cơ thể và bộ não. Các loại phẫu thuật được thực hiện đối với các khối dây thần kinh gồm có phẫu thuật cắt dây thần kinh; cắt rễ dây thần kinh tủy sống, dây thần kinh sọ não và dây thần kinh sinh ba; và thủ thuật cắt bỏ thần kinh giao cảm, hay còn gọi là ức chế thần kinh giao cảm.

Các thuốc kháng viêm phi steroid (NSAIDs) (gồm cả aspirin và ibuprofen) được kê toa rộng rãi và đôi khi được gọi là thuốc giảm đau không gây mê (non-narcotic) hoặc không gây nghiện (non-opioid). Cơ chế làm việc của chúng làm giảm những phản ứng viêm tấy ở các mô. Nhiều loại thuốc này kích thích dạ dày do đó chúng thường được uống trong hoặc sau khi ăn.

Các thuốc thuộc nhóm Opioid được chiết xuất từ cây thuốc phiện và là một trong những thuốc lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại. Các thuốc đó gồm có cô-đê-in và có lẽ một loại thuốc nổi tiếng nhất tất cả là mocfin (morphine). Mocfin có thể được đưa vào cơ thể theo nhiều dạng thức khác nhau, bao gồm cả việc người bệnh tự đưa vào cơ thể bằng một cái bơm. Các thuốc thuộc nhóm Opioid có tác dụng gây mê, hay nói cách khác, chúng gây nên tình trạng mê đồng thời làm giảm cơn đau, và một số bệnh nhân có thể có cảm giác nghiện thuốc. Vì những lý do này nên việc kê toa thuốc thuộc nhóm opioid để điều trị cho bệnh nhân cần phải được giám sát chặt chẽ; trong một số trường hợp, bác sĩ kê toa thêm các chất kích thích để làm trung hòa những tác dụng phụ gây mê. Ngoài tình trạng buồn ngủ người bệnh còn gặp phải những tác dụng phụ thông thường khác bao gồm táo bón, buồn nôn và ói mửa.

Liệu pháp vật lý và phục hồi chức năng đã được sử dụng từ xa xưa với những kỹ thuật và phương pháp vật lý, ví dụ như nhiệt, hàn, tập thể dục, xoa bóp và kích thích bằng tay trong quá trình điều trị một số bệnh lý cụ thể. Những liệu pháp này có thể được sử dụng để nâng cao chức năng, kiểm soát cơn đau và đẩy nhanh quá trình hồi phục hoàn toàn của bệnh nhân.

Phẫu thuật: Các phương pháp phẫu thuật để làm giảm đau gồm có thủ thuật cắt rễ dây thần kinh đối với dây thần kinh gần tủy sống và thủ thuật mở dây đối với các bó dây thần kinh trong tủy sống. Thông thường thủ thuật mở dây chỉ được thực hiện đối với những chứng đau do bệnh ung thư giai đoạn cuối khi mà các liệu pháp điều trị khác không còn phát huy được tác dụng. Một phẫu thuật khác để chế ngự cơn đau là phương pháp phẫu thuật vùng rễ lưng, hay còn gọi là phẫu thuật DREZ mà theo cách này các nơron tủy sống phản ứng với cơn đau của người bệnh được bác sĩ phẫu thuật phá hủy. Thỉnh thoảng người ta thực hiện phẫu thuật bằng các điện cực với mục đích làm hỏng một cách có chọn lọc các nơron trong vùng mục tiêu của bộ não. Những thủ thuật này hiếm khi có tác dụng làm giảm đau lâu dài nhưng cả bác sĩ và người bệnh có thể quyết định rằng thủ thuật phẫu thuật đó sẽ có đủ hiệu quả đáng để trang trải chi phí và hứng chịu rủi ro.

Nghiên cứu

Các nhà khoa học tin rằng những tiến bộ trong ngành khoa học về thần kinh sẽ mang đến nhiều phương pháp điều trị hơn và hiệu quả hơn đối với chứng đau mạn tính trong những năm sắp tới.

Các nhà nghiên cứu lâm sàng đã tiến hành thực nghiệm ở những người mắc chứng đau mạn tính và phát hiện ra rằng những người này thường có mức endorphin trong dịch tủy thấp-hơn-mức-bình thường. Nhiều cuộc điều tra nghiên cứu về thuật châm cứu đã được thực hiện trong đó có liệu pháp nối dây vào các kim châm để kích thích các mút thần kinh bằng điện (điện châm) mà theo một số nhà điều tra thì liệu pháp này kích hoạt các hệ thống endorphin. Các cuộc thử nghiệm khác về thuật châm cứu đã cho thấy rằng thuật châm cứu đã làm tăng mức endorphin trong dịch não tủy. Các nhà điều tra đang nghiên cứu về ảnh hưởng của tình trạng căng thẳng trong quá trình mắc chứng đau mạn tính. Các nhà hóa học đang tổng hợp các loại thuốc giảm đau mới và đang nghiên cứu để tìm ra tác dụng giảm đau ở các thuốc thường không được kê toa để điều trị cơn đau.

Đi đầu trong mặt trận nghiên cứu về chứng đau là các nhà khoa học được hỗ trợ bởi Mạng lưới Các Viện Nghiên cứu về Sức khỏe Quốc gia (National Institutes of Health - NIH), gồm cả NINDS. Các viện nghiên cứu khác thuộc NIH cũng hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu chứng đau bao gồm Viện Nghiên cứu Quốc gia về Nha khoa, Sọ não và Mặt (National Institute of Dental and Craniofacial Research), Viện Nghiên cứu Quốc gia về Ung thư (National Cancer Institute), Viện Nghiên cứu Quốc gia về Điều dưỡng (National Institute of Nursing Research), Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lạm dụng Thuốc (National Institute on Drug Abuse), và Viện Nghiên cứu Quốc gia về Sức khỏe Tinh thần (National Institute of Mental Health).

Một số thuốc điều trị đau làm cho người bệnh không cảm thấy tình trạng đau đớn. Mocfin là một trong những thuốc đó. Nó hoạt động qua cơ chế giảm đau tự nhiên của cơ thể, ngăn không cho các tín hiệu về tình trạng đau được truyền đến não. Các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu để phát triển một loại thuốc cũng những đặc tính chế ngự cơn đau giống như của mocfin nhưng không có những phản ứng phụ có hại, ví dụ như tình trạng buồn ngủ hoặc nguy cơ gây nghiện. Những người bệnh sử dụng mocfin cũng gặp phải vấn đề về khả năng dung nạp mocfin, có nghĩa là sử dụng mocfin càng lâu thì họ càng yêu cầu liều lượng mocfin cao hơn để đạt được mức độ giảm đau tương tự. Các cuộc nghiên cứu đã xác định được những nhân tố gây nên tình trạng dung nạp thuốc; sự tiến bộ không ngừng trong lĩnh vực nghiên cứu này nên chỉ cho phép người bệnh sử dụng mocfin liều thấp.

Ngăn chặn hoặc làm đứt quãng các tín hiệu về tình trạng đau, đặc biệt là khi không có tổn hại hoặc chấn thương đối với mô, là một mục tiêu quan trọng trong quá trình phát triển các loại thuốc giảm đau. Trình độ hiểu biết về những cơ chế gây đau đớn căn bản của mọi người được nâng cao sẽ tạo nên những mối quan hệ hợp tác bền chặt vì mục tiêu phát triển các loại thuốc điều trị trong tương lai.

Source: National Institute of Nervous System Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke - NINDS).

Bài viết cùng chuyên mục

Trầm cảm: cảm thấy như thế nào?

Mặc dù nhiều người bị trầm cảm cảm thấy buồn bã, nhưng nó cảm thấy nghiêm trọng hơn nhiều so với những cảm xúc đến và đi theo những sự kiện trong cuộc sống

Chạy bộ: dù ít đến đâu cũng giảm 27% nguy cơ tử vong

Tham gia chạy bộ, bất kể liều lượng của nó, có thể sẽ dẫn đến những cải thiện đáng kể về sức khỏe, và tuổi thọ

Chứng mất trí: uống quá nhiều và quá ít rượu có thể làm tăng nguy cơ

Những phát hiện này cho thấy rằng cả việc kiêng rượu ở tuổi trung niên và uống nhiều làm tăng nguy cơ mất trí nhớ khi so sánh với uống từ nhẹ đến vừa

Ngứa âm đạo khi mang thai: những điều cần biết

Nhiều thứ có thể gây ngứa âm đạo khi mang thai, một số có thể là kết quả của những thay đổi cơ thể đang trải qua, các nguyên nhân khác có thể không liên quan đến thai kỳ

Mức đường huyết bình thường có thể không bình thường sau khi ăn

Xét nghiệm hemoglobin glycated thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh tiểu đường, và nó dựa vào mức đường huyết trung bình trong khoảng thời gian 3 tháng

Giảm cân nặng: làm thế nào để giảm cân nhanh tự nhiên

Những chiến lược này bao gồm tập thể dục, theo dõi lượng calo, ăn kiêng liên tục, và giảm số lượng carbohydrate trong chế độ ăn uống

Những điều cần biết về tình dục khi mang thai và sau sinh

Thông thường, đặc biệt là trong trường hợp rách đáy chậu, hoặc thủ thuật phẫu thuật, nó được khuyến khích chờ đợi cho đến sau khi 6 tuần sau sinh

JNC 8: hướng dẫn về tăng huyết áp

Điều trị lần đầu với dòng đầu tiên nên được giới hạn đến 4 loại thuốc: thiazide - loại thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn kênh canxi (CCB), thuốc ức chế men chuyển, và ARB.

Insulin nền-Bolus cho bệnh nhân nhập viện với Covid-19: các nguyên tắc cơ bản

Insulin thường cung cấp sự bao phủ trong giai đoạn sau ăn (ngoài 4 giờ sau bữa ăn chính), một số mức điều hòa glucose cơ bản, thì tác dụng của insulin tác dụng nhanh chủ yếu giới hạn trong giai đoạn sau ăn (lên đến 4 giờ sau một bữa ăn chính).

Bệnh loạn dưỡng cơ (Muscular dystrophy)

Loạn dưỡng cơ thể mặt-vai-cánh tay xuất hiện ở thanh thiếu niên và gây nên tình trạng suy yếu diễn tiến ở các cơ mặt và một số cơ ở hai tay cánh tay và hai chân.

Virus corona mới (2019-nCoV): công chúng nên làm gì?

Vi rút coronavirus này là bệnh truyền nhiễm có hậu quả cao trong không khí, vì nó rất dễ lây nhiễm, có thể lây lan dễ dàng trong cộng đồng và các cơ sở y tế, rất khó nhận ra

Thuốc bổ não: trò bịp bợm người dân

Đầu tư nhiều hơn vào tập thể dục, và tuân theo chế độ ăn dựa trên thực vật, có thể giúp ích cho trí nhớ, và sức khỏe của não

Các loại bệnh tiểu đường và phương pháp điều trị

Không phải tất cả các dạng bệnh tiểu đường đều xuất phát từ một người bị thừa cân hoặc lối sống không hoạt động dẫn đến, trong thực tế, một số có mặt từ thời thơ ấu.

Cắt Amidan trẻ em: loại bỏ một cách không cần thiết

Nghiên cứu cung cấp một cái nhìn có giá trị, nhưng hồ sơ y tế không đầy đủ, có thể không nắm bắt được tất cả các lý do tại sao phẫu thuật cắt amidan được thực hiện

Lọc máu: tác dụng phụ của chạy thận nhân tạo và lọc màng bụng

Cả chạy thận nhân tạo và thẩm phân phúc mạc đều gây ra tác dụng phụ, điều này là do cách lọc máu được thực hiện và thực tế nó chỉ có thể bù đắp một phần cho việc mất chức năng thận

Uống bao nhiêu rượu là quá nhiều?

Theo hướng dẫn chế độ ăn uống, uống rượu vừa phải liên quan đến tối đa một ly mỗi ngày đối với phụ nữ và tối đa hai ly mỗi ngày đối với nam giới

Vi rút Corona 2019: lịch sử bệnh lý

Có thể tìm thấy thông tin và hướng dẫn từ WHO về sự bùng phát của coronavirus mới 2019 nCoV được báo cáo lần đầu tiên từ Vũ Hán, Trung Quốc

Phương pháp không dùng thuốc để điều trị trầm cảm nhẹ

Luôn luôn tham khảo ý kiến ​​bác sĩ nếu gặp các triệu chứng trầm cảm. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng, thuốc có thể phù hợp, ít nhất là trong thời gian ngắn. Mặt khác, có thể quản lý và thậm chí ngăn chặn các giai đoạn trầm cảm với bốn chiến lược này.

Giảm đau lưng mãn tính: loại kích thích thần kinh mới

Ý tưởng kích thích hạch rễ hấp dẫn bởi vì, không giống như kích thích tủy sống, nó chỉ nhắm vào các dây thần kinh bị ảnh hưởng, một lý do khác là nó đòi hỏi mức dòng điện thấp hơn

Diễn biến lâm sàng COVID 19

Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh nặng vẫn chưa rõ ràng, mặc dù bệnh nhân lớn tuổi và những người mắc bệnh mãn tính có thể có nguy cơ mắc bệnh nặng cao hơn

Thuốc statin làm giảm cholesterol cho mọi người không?

Statin vẫn được khuyến cáo và quy định thường xuyên cho tất cả những người bị bệnh tim đã biết, đối với những người có cholesterol LDL rất cao

Kháng thể chống Sars CoV-2: mức kháng thể của vắc xin Pfizer và AstraZeneca có thể giảm trong 2-3 tháng

Nghiên cứu của UCL Virus Watch cũng cho thấy mức độ kháng thể về cơ bản cao hơn đáng kể sau hai liều vắc xin Pfizer so với sau hai mũi tiêm phòng ngừa AstraZeneca, được gọi là Covishield ở Ấn Độ.

Chế độ ăn chay: liên quan đến nguy cơ đột quỵ cao hơn

Nghiên cứu đã chỉ ra, ăn cá hoặc ăn chay có nguy cơ mắc bệnh mạch vành thấp hơn, nhưng ăn chay có nguy cơ đột quỵ cao hơn

Vắc xin Covid-19: chống chỉ định và thận trọng (bao gồm cả dị ứng)

Tư vấn về dị ứng có thể hữu ích để đánh giá các phản ứng dị ứng nghi ngờ với vắc xin COVID-19 hoặc các thành phần của nó và đánh giá rủi ro của việc tiêm chủng COVID-19 trong tương lai.

Mang thai và táo bón: những điều cần biết

Một số phụ nữ bị táo bón ở giai đoạn đầu của thai kỳ, trong khi nó không ảnh hưởng đến những phụ nữ khác cho đến sau này