- Trang chủ
- Thông tin
- Thông tin y học nước ngoài
- Đa xơ cứng (Multiple Sclerosis)
Đa xơ cứng (Multiple Sclerosis)
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Đa xơ cứng (Multiple Sclerosis - MS) là một chứng rối loạn não bộ và tủy sống với chức năng thần kinh bị giảm sút kết hợp với việc hình thành sẹo trên lớp phủ ngoài của các tế bào thần kinh. Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng của đa xơ cứng bao gồm nhiều giai đoạn tê liệt khác nhau.
Bệnh đa xơ cứng có những giai đoạn viêm lặp đi lặp lại phá hủy màng bọc myelin, một lớp bọc ngoài sợi thần kinh, để lại nhiều vùng mô sẹo (sự hóa cứng) dọc theo lớp phủ ngoài của các tế bào thần kinh. Tình trạng này dẫn đến việc làm chậm hoặc tắc đường truyền xung nhịp thần kinh ở vùng đó.
Đa xơ cứng thường diễn tiến với những giai đoạn kết thúc trong vài ngày, vài tuần, hoặc vài tháng luân phiên thay đổi theo số lần giảm hoặc không có triệu chứng (sự thuyên giảm). Tình trạng tái phát (sự phát lại) là phổ biến.
Hiện người ta vẫn chưa biết nguyên nhân chính xác của căn bệnh đa xơ cứng. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng bệnh cũng có thể do yếu tố môi trường mang lại. Tỷ lệ mắc phải căn bệnh này ở khu vực Bắc Âu, Miền Bắc Hoa Kỳ, Bắc Úc, và Niu Zilân cao hơn so với các vùng khác trên thế giới. Tình trạng rối loạn này cũng có xu hướng xuất phát từ gia đình.
Người ta cho rằng đa xơ cứng là một loại phản ứng miễn dịch bất thường có hướng chống lại hệ thần kinh trung ương (Central Nervous System - CNS). Loại kháng nguyên chính xác khiến các tế bào miễn nhiễm trở thành mục tiêu bị tấn công vẫn còn là một ẩn số. Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã xác định được những tế bào miễn nhiễm nào đang làm gia tăng sự tấn công, làm thế nào mà chúng bị kích hoạt để tấn công, và một số trong số các điểm hay các cơ quan nhận cảm, trên các tế bào tấn công dường như để lôi kéo myelin bắt đầu quá trình phá hủy.
Những nguyên lý về nguyên nhân gây nên bệnh đa xơ cứng gồm có vai trò của sinh vật kiểu vi-rút, sự bất thường của các gen có trách nhiệm kiểm soát hệ thống miễn dịch, hoặc là sự kết hợp của cả hai.
Cứ một 1000 người thì gần có 1 người mắc bệnh đa xơ cứng. Bệnh này thường xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn ở nam giới. Tình trạng rối loạn bắt đầu phổ biến nhất từ độ tuổi từ 20 đến 40 tuổi nhưng nó cũng xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào.
Những triệu chứng của đa xơ cứng bao gồm suy yếu ở một hoặc nhiều chi, liệt một hoặc nhiều chi, run rẩy ở một hoặc nhiều chi, co thắt cơ (hiện tượng co thắt không kiểm soát được ở các nhóm cơ), cử động khác thường, tê liệt, tê buốt, đau đớn, mất thị lực, mất khả năng phối hợp động tác và cân bằng tư thế, mất trí nhớ hoặc không có khả năng phán đoán và mệt mỏi.
Các triệu chứng có thể khác nhau tùy thuộc vào từng đợt tấn công. Người bệnh có thể bị sốt hoặc các cuộc tấn công trở nên trầm trọng hơn khi tắm nước nóng, ra ngoài ánh nắng và bị căng thẳng.
Tình trạng mắc bệnh đa xơ cứng không ai giống ai cả về mức độ trầm trọng và diễn tiến của bệnh. Một số người có một vài lần xuất hiện bệnh và bị mất chức năng chút ít. Những người khác gặp phải tình trạng đa xơ cứng "tái phát-thuyên giảm" điều đó có nghĩa là họ bị hàng loạt các lần bệnh xuất hiện (tình trạng trầm trọng) mà tiếp theo sau là những quãng thời gian hồi phục (thuyên giảm).
Một số người bệnh lại gặp phải chứng bệnh được gọi là "diễn tiến" mà nó có thể là bệnh "chính yếu" hoặc có thể là "thứ yếu". Những người mắc phải bệnh đa xơ cứng chính yếu-diễn tiến thì tình trạng bệnh càng ngày càng xấu đi (hay còn gọi là tiến triển) và chỉ có chút ít cơ hội hồi phục. Bệnh đa xơ cứng thứ yếu-diễn tiến bắt đầu bằng một loạt các đợt tái phát và hồi phục nhưng vẫn diễn tiến đều đều theo thời gian bằng tình trạng tiếp tục xấu đi. Đa số người mắc bệnh đa xơ cứng gặp phải tình trạng tái phát-thuyên giảm hoặc thứ yếu-diễn tiến.
Hiện chưa có phương thức chữa trị bệnh đa xơ cứng. Có những liệu pháp mới mang đến hứa hẹn cho người bệnh vì nó có thể giảm mức độ trầm trọng và làm chậm diễn tiến của bệnh. Quá trình điều trị được thực hiện với mục tiêu kiểm soát được các triệu chứng và duy trì được chức năng để mang đến chất lượng cuộc sống ở mức tối đa.
Hiện giờ những người mắc bệnh có tình trạng tái phát-thuyên giảm được thực hiện liệu pháp điều chỉnh miễn dịch bằng việc tiêm thuốc dưới da hoặc vào cơ một lần hoặc vài lần mỗi tuần. Thuốc được sử dụng có thể dưới dạng interferon (ví dụ như Avonex hoặc Betaseron) hoặc một loại thuốc khác được gọi là glatiramer acetate (Copaxone). Tác dụng của những loại thuốc này tương tự như nhau và việc quyết định loại thuốc nào được sử dụng phải tùy thuộc vào bệnh sử về phản ứng phụ của mỗi người bệnh.
Các loại Steroid cũng thường được sử dụng để làm giảm mức độ trầm trọng của một cuộc tấn công. Những loại thuốc điều trị đa xơ cứng thường gặp khác gồm có baclofen, tizanidine hoặc diazepam có thể được sử dụng để làm giảm sự co thắt của cơ. Các thuốc chống liệt rung có tác dụng cholinergic có thể giúp làm giảm những vấn đề về tiết niệu. Các loại thuốc chống suy nhược có thể giúp người bệnh chống lại những triệu chứng về tâm lý hoặc hành vi. Thuốc Amantadine có thể được sử dụng để chống sự mệt mỏi.
Ngoài ra những liệu pháp vật lý, ngôn ngữ hoặc nghề nghiệp có thể giúp cải thiện quan điểm của người bệnh, làm giảm tâm lý chán nản, tối đa hóa chức năng và nâng cao những kỹ năng đối phó. Một chương trình tập luyện được lên kế hoạch cụ thể ngay từ khi mắc bệnh đa xơ cứng sẽ giúp duy trì được trương lực cơ.
Cần phải có những cố gắng để tránh tình trạng mệt mỏi, căng thẳng, suy giảm về thể chất, những cực đoan về nhiệt độ, và tình trạng ốm yếu để giảm bớt những yếu tố làm xuất hiện các đợt đa xơ cứng.
Kết quả được mong đợi thường thay đổi và khó nói trước. Mặc dù tình trạng rối loạn này là mạn tính và không thể cứu chữa, nhưng tuổi thọ trung bình của người bệnh có thể bằng hoặc gần bằng những người không mắc bệnh, với khoảng thời gian sống phổ biến là 35 năm trở lên tính từ khi được chẩn đoán. Phần lớn những người mắc bệnh đa xơ cứng tiếp tục đi lại và làm việc với tình trạng tàn tật rất nhỏ trong khoảng 20 năm trở lên.
Sources: National Institute of neurological Disorders and Stroke (National Institute of Neurological Disorders and Stroke - NINDS), the National Multiple sclerosis (National Multiple Sclerosis Society), The MS Center.
Bài viết cùng chuyên mục
Gen và nghiện: điều trị có mục tiêu
Các loại thuốc lạm dụng, bao gồm cả ma túy, hoạt động trên hệ thống thưởng của não, một hệ thống truyền tín hiệu chủ yếu thông qua một phân tử
Hy vọng cho COVID-19: vắc xin của Nga đầy hứa hẹn và những phát hiện khác
Các nhà khoa học tại Viện Nghiên cứu Dịch tễ học và Vi sinh vật học Gamaleya, ở Moscow, đã phát minh ra một loại vắc xin tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh mẽ, không có tác dụng phụ nghiêm trọng ở người.
Giúp ngủ ngon: hành vi đã được chứng minh để giúp đỡ
Tránh hoặc hạn chế caffeine, caffeine có thể khiến tỉnh táo hơn trong ngày, nhưng nhiều người nhạy cảm với các tác dụng của nó
Vắc xin COVID Sputnik V của Nga: tại sao ngày càng nhiều quốc gia chuyển sang sử dụng
Sputnik V sử dụng nền tảng vectơ vi-rút - sử dụng vi-rút vô hại để đưa vật chất di truyền từ vi-rút gây COVID vào hệ thống miễn dịch - giống như vắc-xin Oxford / AstraZeneca và Johnson & Johnson.
Suy giảm nhận thức: các yếu tố bảo vệ
Các hoạt động xã hội đòi hỏi phải tham gia vào một số quá trình tinh thần quan trọng, bao gồm sự chú ý và trí nhớ, có thể thúc đẩy nhận thức.
Covid-19: thông số thở máy ở bệnh nhân bị bệnh nặng
Dữ liệu hiện có cho thấy rằng, ở những bệnh nhân thở máy bằng COVID-19, thông khí cơ học và cài đặt máy thở trong vòng 24 giờ kể từ khi nhập viện ICU là không đồng nhất nhưng tương tự như những gì được báo cáo cho ARDS “cổ điển”.
Vi rút Corona 2019: lịch sử bệnh lý
Có thể tìm thấy thông tin và hướng dẫn từ WHO về sự bùng phát của coronavirus mới 2019 nCoV được báo cáo lần đầu tiên từ Vũ Hán, Trung Quốc
Quái thảo mềm: giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo
Công dụng, chỉ định và phối hợp, đồng bào địa phương Sapa dùng lá giã đắp vào vết thương cho chóng liền sẹo
Bệnh gan theo nguyên nhân
Những người bị nhiễm viêm gan C thường không có triệu chứng, nhưng ảnh hưởng lâu dài có thể bao gồm tổn thương gan và ung thư, vi rút được truyền qua máu bị nhiễm theo những cách tương tự như viêm gan B.
Men chuyển angiotensine 2 (ACE2): có liên quan đến tổn thương đa cơ quan trong COVID-19
Cũng như SARS và COVID-19, tổn thương nội tạng cũng thường được quan sát thấy ở MERS, đặc biệt là đường tiêu hóa và thận, trong khi tỷ lệ tổn thương tim cấp tính ít phổ biến hơn.
Muốn sống lâu hơn và tốt hơn: hãy tập sức mạnh
Tập luyện sức mạnh của người mới bắt đầu chỉ mất 20 phút, và sẽ không cần phải càu nhàu, căng thẳng hoặc đổ mồ hôi như một vận động viên thể hình
Nghiên cứu ngược lại những gì chúng ta biết về sỏi thận
Mặc dù nhìn chung sỏi thận là vô hại, sỏi thận có liên quan đến các tình trạng nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như béo phì, tiểu đường và cao huyết áp
Dịch truyền tĩnh mạch: dung dịch hồi sức mang oxy
Dung dịch tăng thể tích mang oxy, là tác nhân hồi sức đáng mong đợi nhất, bởi vì chúng làm tăng thể tích huyết tương, cải thiện quá trình oxy hóa mô
Mang thai và táo bón: những điều cần biết
Một số phụ nữ bị táo bón ở giai đoạn đầu của thai kỳ, trong khi nó không ảnh hưởng đến những phụ nữ khác cho đến sau này
Tại sao chúng ta mỉm cười?
Sau khi phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu kết luận rằng tâm trạng dường như được kết hợp với việc cười thường xuyên nhất, đơn giản là sự tham gia
Có thể uống rượu trong khi dùng metformin không?
Rượu cũng ảnh hưởng đáng kể đến lượng đường trong máu, chuyển hóa rượu gây căng thẳng cho gan, một cơ quan chuyên dùng để loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể
Lựa chọn điều trị tiểu đường loại 2 tốt nhất: các yếu tố cần xem xét
Quản lý nó hiệu quả, có nghĩa là sử dụng nhiều chiến lược giảm rủi ro, đồng thời đạt được mục tiêu kiểm soát lượng đường trong máu
Kem đánh răng: thành phần liên quan đến kháng kháng sinh
Triclosan có đặc tính kháng khuẩn và được tìm thấy trong xà phòng, chất tẩy rửa, đồ chơi, nó cũng thấy trong một số nhãn hiệu kem đánh răng
Các hội chứng tâm thần sau đột quỵ: chẩn đoán và can thiệp
Các triệu chứng tâm thần sau đột quỵ, ít gặp hơn bao gồm khóc bệnh lý, cười bệnh lý, thờ ơ và mệt mỏi cô lập
Vắc xin Covid-19: các loại và cơ chế tác dụng
Vắc xin Covid-19 sử dụng cấu trúc giống như gai trên bề mặt của virus Covid-19 được gọi là protein S. Protein S giúp vi rút Covid-19 xâm nhập vào bên trong tế bào và bắt đầu lây nhiễm.
Giữ xương chắc khỏe: phòng ngừa loãng xương
Mất xương thường bắt đầu muộn hơn đối với nam giới, thường là vào cuối những năm 50, và tiến triển chậm hơn so với phụ nữ
Mang thai và hội chứng tiền kinh nguyệt: những điều cần biết
Làm xét nghiệm thử thai là cách tốt nhất và dễ nhất để xác định xem đó là PMS hay mang thai sớm, có thể làm xét nghiệm tại nhà hoặc đến nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe
Covid-19 thay đổi mạch máu phổi: kết quả từ chụp phim lồng ngực
Những tổn thương do Covid-19 gây ra đối với các mạch máu nhỏ nhất của phổi đã được ghi lại một cách phức tạp bằng cách sử dụng tia X năng lượng cao phát ra từ một loại máy gia tốc hạt đặc biệt.
Cholesterol tăng di truyền thường không được điều trị
Nếu không được điều trị, một người bị tăng cholesterol máu gia đình có ít nhất 13 lần nguy cơ bị đau tim so với người không có tăng cholesterol máu gia đình
Bà bầu: nên tránh đồ uống ngọt nhân tạo
Mối tương quan khi kiểm soát cân nặng của người mẹ và các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến việc tăng cân, như lượng calo tổng thể hoặc chất lượng chế độ ăn uống
