Ung thư tiền liệt tuyến: nguyên lý nội khoa

2018-03-01 10:19 AM

Với bệnh nhân đã đi căn xa, điều trị ức chế sản xuất androgen là 1 lựa chọn. Phẫu thuật cắt tinh hoàn có hiệu quả, nhưng hầu hết bệnh nhân thích dùng thuốc leuprolide.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Nhận định chung ung thư tiền liệt tuyến

Ung thư tiền liệt tuyến được chấn đoán trong 241,740 đàn ông năm 2012 ở Mỹ-Tỷ lệ này có thể tương đương với ung thư vú. Khoảng 28,170 nam giới chết do ung thư tiền liệt tuyến năm 2012. Chẩn đoán sớm ung thư ở nam giới có triệu chứng nhẹ phát hiện qua sàng lọc có tăng nồng độ PSA trong huyết tương điều trị rất phức tạp. Giống như phần lớn các loại ung thư khác, ảnh hưởng chủ yếu liên quan đến tuổi. Bệnh thường gặp ở người da đen hơn da trắng. Các triệu chứng thường tương tự và có thể không phân biệt được với phì đại tuyến tiền liệt, nhưng những bệnh nhân bị ung thư thường có bí đái và đau lưng hoặc đau hông. Trên mô học, 95% là ung thư biểu mô tuyến. Tiên lượng phụ thuộc vào độ mô học (thang điểm Gleason).

Đối lập với tăng sinh tuyến tiền liệt, ung thư tuyến tiền liệt thường có nguồn gốc từ vùng ngoại vi của tuyến và có thể phát hiện được qua thăm trực tràng (DRE) biểu hiện bằng một hoặc nhiều nốt ở mặt sau của tuyến, khối rắn ít di động và hình dạng bất thường. Tiếp cận chẩn đoán được chỉ ra ở Hình. Những bệnh nhân có DRE âm tính và PSA ≤ 4 ng/mL có thể được theo dõi hàng năm. Những bệnh nhân có bất thường DRE hoặc PSA >10 ng/mL nên siêu âm tuyến tiền liệt qua trực tràng (TRUS). Những bệnh nhân có DRE bình thường và PSA từ 4.1–10 ng/mL được xử lý khác nhau ở các trung tâm khám chữa bệnh khác nhau.

Một số trung tâm tiến hành TRUS và sinh thiết bất kì bất thường nào hoặc tiếp tục theo dõi nếu không phát hiện ra bất thường. Một số khác nên xét nghiệm lại PSA mỗi một năm và sinh thiết nếu mỗi gian đoạn tăng > 0.75 ng/mL. Các phương pháp khác của PSA để phân biệt ung thư sớm với phì đại tuyến tiền liệt gồm xác định ranh giới và PSA tự do và PSA liên quan đến kích thước tuyến tiền liệt (tỷ trọng PSA). Có thể một phần ba số người ung tư tiền liệt tuyến không có tăng PSA.

Ung thư lan đến hạch bạch huyết được quyết định phẫu thuật; nó chỉ biểu hiện 10% số bệnh nhân với thang điểm Gleason dưới 5 và trong 70% số bệnh nhân với thang điểm 9 hoặc 10.

Nồng độ PSA liên quan đến sự di căn; chỉ 10% người có PSA < 10 ng/mL có di căn hạch. Xương là vị trí hay gặp di căn xa nhất. Đánh giá giai đoạn theo Whitmore-Jewett gồm A: không sờ thấy khối U; B: sờ thấy khối U ở 1 (B1) hoặc 2 (B2) thùy; C: khối U lan ra ngoài vỏ; và D: di căn xa.

Thăm trực tràng

Hình. Sử dụng thăm trực tràng (TTT) và xét nghiệm PSA để quyết định sinh thiết tuyến tiền liệt dưới siêu âm.

Điều trị ung thư tiền liệt tuyến

Với ung thư giai đoạn A-C, phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt triệt căn và xạ trị có kết quả như nhau; tuy nhiên, hầu hết các bệnh nhân được phẫu thuật. Cả 2 phương pháp đều có thể gây liệt dương. Phẫu thuật thường gây són tiểu. Xạ trị thường gây viêm trực tràng, hậu môn có thể có chảy máu, hẹp. Điều trị hormone (goserelin) cho bệnh giai đoạn khu trú sau xạ trị cải thiện hiệu quả điều trị. Bệnh nhân phải có kì vọng sống 5 năm mới phẫu thuật triệt căn. Bệnh nhân giai đoạn A có thời gian sống như những người không mắc ung thư cùng lứa tuổi. Giai đoạn B, C có tỉ lệ sống 10 năm là 82% và 42%.

Bệnh nhân sau phẫu thuật có tăng PSA có thể chụp Prostascint scanning (kháng thể của kháng nguyên PSA). Nếu không thấy bất thường, bệnh nhân được theo dõi tiếp. Nếu thấy bất thường ở giường tuyến tiền liệt, bệnh đã tái phát tại chỗ và cần xạ trị ngoài vào vị trí đó (nếu bệnh nhân đã điều trị bằng xạ trị, có thể điều trị phẫu). Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, PSA tăng sau điều trị cho thấy bệnh đã lan toàn thân. Điều trị ở giai đoạn này chưa rõ hiệu quả.

Với bệnh nhân đã đi căn xa, điều trị ức chế sản xuất androgen là 1 lựa chọn. Phẫu thuật cắt tinh hoàn có hiệu quả, nhưng hầu hết bệnh nhân thích dùng thuốc leuprolide, 7.5 mg tiêm bắp hàng tháng (ức chế sản xuất hormone hướng sinh dục từ tuyến yên), với flutamide, 250 mg uống 3 lần/ngày (ức chế receptor androgen). Hiệu quả của phối hợp với flutamide vẫn còn bàn bãi. Các phương pháp khác gồm cắt tuyến thượng thận, cắt tuyến tùng, dùng estrogen, thuốc ức chế tuyến thượng thận aminoglutethimide. Thời gian sống trung bình với giai đoạn D là 33 tháng. Khối U đôi khi đáp ứng với liệu pháp giảm hormone bằng cách co lại. Phương pháp ức chế hormone thứ hai là ức chế sản xuất androgen tại khối U; abiraterone, ức chế CYP17 ngăn cản tổng hợp androgen và MDV3100, 1 chất kháng androgen, cải thiện khả năng sống. Nhiều trường hợp bệnh vẫn tiến triển khi điều trị ức chế hormone là những khối U không phụ thuộc androgen thường liên quan đến đột biến gen mã hóa receptor androgen và làm khối U kháng thuốc. Hóa trị nhằm mục đích điều trị giảm nhẹ trong ung thư tuyến tiền liệt.

Mitoxantrone, estramustine, và taxanes, đặc biệt là cabazitaxel, dường như có hiệu quả khi dùng đơn độc, phác đồ phối hợp thuộc đang được thử nghiệm. Bệnh nhân được hóa trị thường giảm đau nhiều hơn so với những bệnh nhân chỉ chăm sóc hỗ trợ tại nhà. Liệu pháp ức chế miễn dịch đặc hiệu cải thiện thời gian sống thêm 4 tháng ở những bệnh nhân kháng với liệu pháp ức chế hormone.

Đau xương do di căn xương có thể giảm nhẹ với strontium-89 hoặc samarium-153. Bisphosphonate giảm tỉ lệ gặp biến chứng về xương.

Dự phòng ung thư tiền liệt tuyến

Finasteride và dutasteride giảm 25% tỉ lệ mới mắc ung thư, không có hiệu quả trong cải thiện thời gian sống thêm. Ngoài ra, khối U dường như có tiến triển đến giai đoạn có điểm Gleason cao hơn.

Bài viết cùng chuyên mục

Một số rối loạn thần kinh sọ

Một số rối loạn thần kinh sọ, rối loạn cảm giác mùi, đau thần kinh thiệt hầu, nuốt khó và khó phát âm, yếu cổ, liệt lưỡi.

Hội chứng thần kinh cận ung thư: nguyên lý nội khoa

Khi phát hiện hội chứng cận ung thư, nên tiến hành tìm ung thư sớm, vì điều trị ở giai đoạn sớm có thể cải thiện các rối loạn thần kinh do ung thư; rất nhiều các rối loạn này cũng gặp ở người không mắc ung thư.

Ung thư nội mạc tử cung: nguyên lý nội khoa

Ở phụ nữ có phân độ mô học không rõ, xâm lấn cơ tử cung sâu, hoặc liên quan kéo dài xuống đoạn thấp hay cổ tử cung, xạ trị trong hốc hoặc xạ trị kẽ được chỉ định.

Hạ kali máu: nguyên lý nội khoa

Nguyên nhân của hạ Kali máu thì thường rõ ràng từ tiền sử, thăm khám, và hoặc xét nghiệm cận lâm sàng. Tuy nhiên, hạ Kali máu dai dẵng thì cần chi tiết hơn, đánh giá một cách hệ thống.

Suy giảm chức năng thần kinh ở bệnh nhân nặng

Phần lớn những bệnh nhân ở ICU tiến triển thành mê sảng, được mô tả bởi những thay đổi cấp tính về trạng thái tâm thần, giảm tập trung, suy nghĩ hỗn loạn.

Xanh tím: nguyên lý nội khoa

Ngón tay dùi trống có thể do di truyền, vô căn hoặc mắc phải do ung thư phổi, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, giãn phế quản, hoặc xơ gan.

Rối loạn nhịp chậm: nguyên lý nội khoa

Loại trừ hoặc chữa trị các nguyên nhân ngoại sinh như thuốc hoặc suy giáp. Mặt khác triệu chứng chậm nhịp đáp ứng với đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn.

Đái tháo đường: nguyên lý chẩn đoán điều trị

Các thể đặc biệt khác bao gồm đái tháo đường do khiếm khuyết di truyềnvà rối loạn đơn gen hiếm gặp khác, bệnh về tuyến tụy ngoại tiết.

Bệnh lý màng ngoài tim, nguyên lý nội khoa

Đau ngực, có thể đau dữ dội, làm nhầm lẫn với nhồi máu cơ tim cấp, nhưng có đặc điểm là đau nhói, đau kiểu màng phổi, và thay đổi theo tư thế

Mề đay và phù mạch: bệnh quá mẫn tức thì (typ I)

Đặc trưng bởi hình thành khối phù lớn ở hạ bì, Có lẽ phù nền là do tăng tính thấm thành mạch gây nên bởi sự phóng thích các chất trung gian từ tế bào mast.

Các rối loạn tương bào

M component có thể thấy ở các bệnh nhân u lympho khác, ung thư không phải lympho và các tình trạng không phải lympho như xơ gan, sarcoidosis.

Ung thư da biểu mô tế bào vảy: nguyên lý nội khoa

Hay gặp nhất là cắt bỏ tại chỗ và phẫu thuật vi phẫu Mohs; xạ trị một số ca chọn lọc. Bệnh di căn có thể điều trị bằng xạ trị hoặc liệu pháp sinh học kết hợp.

Nhiễm trùng huyết mà không có ổ nhiễm trùng rõ ràng

Bệnh Tularemia và bệnh dịch hạch có thể gây ra hôi chứng thương hàn hoặc nhiễm trùng huyết với tỷ lệ tử vong khoảng 30 phần trăm và nên được nghĩ đến khi có yếu tố dịch tễ.

Bệnh lắng đọng canxi apatit và canxi oxalat

Apatit là yếu tố quan trọng trong chứng khớp vai Milwaukee, một bệnh khớp phá hủy của người già xảy ra ở khớp vai và khớp gối.

Đau vùng chậu: rối loạn hệ sinh sản nữ giới

Xác định liệu rằng cơn đau là cấp tính hay mãn tính, liên tục hay co thắt từng đợt, và theo chu kỳ hay không theo chu kỳ sẽ giúp chỉ định thêm các xét nghiệm.

Hình ảnh học gan mật: nguyên lý nội khoa

MRI nhạy nhất trong việc phát hiện các khối u và nang gan; cho phép phân biệt dễ dàng các u mạch máu với u gan; công cụ không xâm lấn chính xác nhất để đánh giá tĩnh mạch gan.

Nhiễm trùng hệ thần kinh kèm hoặc không kèm sốc nhiễm trùng

Sốt rét thể não nên được xem xét khẩn cấp trên bệnh nhân gần đây có đi đến vùng dịch tễ và biểu hiện lâm sàng sốt và các dấu hiệu thần kinh.

Tăng áp mạch máu phổi: nguyên lý nội khoa

Giãn tĩnh mạch cổ, giãn thất phải, P2 mạnh, S4 bên phải, hở van 3 lá. Xanh tím và phù ngoại vi là những biểu hiện muộn.

Các rối loạn toan kiềm hỗn hợp: nguyên lý nội khoa

Hồi sức thể tích của những bệnh nhân có DKA thường sẽ làm tăng độ lọc cầu thận và thận sẽ bài tiết nước tiết chứa ceton, kết quả là giảm AG xảy ra mà không có nhiễm toan AG bình thường xuất hiện.

Đỏ mắt hoặc đau mắt

Mất thị lực đột ngột hoặc nhìn đôi ở những trường hợp mắt không bị đau và không bị viêm thường là các rối loạn thị giác hoặc thần kinh nghiêm trọng và nên được theo dõi chặt chẽ.

Phương pháp chẩn đoán bệnh lý hô hấp

Chụp mạch phổi có thể đánh giá hệ mạch phổi trong trường hợp có huyết khối tĩnh mạch nhưng đã được thay thế bởi CT mạch.

Mất thị lực cấp và nhìn đôi

Một điểm mù chỉ giới hạn ở một mắt được gây ra bởi tổn thương phía trước ảnh hưởng đến thần kinh thị giác hoặc nhãn cầu, phương pháp dùng đèn đưa qua đưa lại có thể cho thấy.

Bệnh sỏi thận: nguyên lý nội khoa

Sỏi bể thận có thể không có triệu chứng hoặc gây đái máu đơn thuần, tắc nghẽn có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào dọc theo đường tiết niệu.

Xuất huyết: nguyên lý nội khoa

Nghĩ đến khi có thời gian máu chảy kéo dài trong khi số lượng tiểu cầu bình thường. Bất thường trong kết dính tiểu cầu, kết tập và giải phóng hạt.

Bệnh Wilson: nguyên lý chẩn đoán điều trị

Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán là mức độ đồng cao khi sinh thiết gan, Xét nghiệm di truyền thường không được làm vì rất nhiều loại đột biến.