Rối loạn cương dương: rối loạn hệ sinh sản nam giới

2018-07-17 03:33 PM

Tiền sử cương dương buổi sáng sớm hoặc đêm là hữu ích cho việc phân biệt cương dương sinh lý với rối loạn cương dương do tâm lý.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tinh hoàn sản xuất tinh trùng và testosterone. Sản xuất không đủ tinh trùng có thể xảy ra khi không có hoặc có thiếu hụt androgen, điều này làm giảm sinh tinh trùng thứ phát.

Nguyên nhân

Rối loạn cương dương (ED) là không thể cương cứng, xuất tinh, hoặc cả hai. Nó ảnh hưởng đến 10-25% đàn ông tuổi trung niên và người già. ED có thể là kết quả của ba cơ chế cơ bản: (1) thất bại lúc bắt đầu (tâm lý, nội tiết, hoặc do thần kinh); (2) không có khoái cảm (chứng bất lực); hoặc (3) không lưu trữ đủ lượng máu trong mạng lỗ khuyết (rối loạn tắc nghẽn tĩnh mạch). Bệnh tiểu đường, xơ vữa động mạch, và các nguyên nhân liên quan đến thuốc chiếm > 80% các trường hợp ED ở đàn ông lớn tuổi. Nguyên nhân hữu cơ phổ biến nhất của ED là liên quan mạch máu; 35-75% nam giới bị tiểu đường bị rối loạn cương dương do sự kết hợp của các biến chứng mạch máu và thần kinh.

Nguyên nhân tâm lý của ED bao gồm lo âu, trầm cảm, xung đột mối quan hệ, sự ức chế tình dục, tiền sử lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu, và sợ mang thai hoặc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Trong số các thuốc hạ huyết áp, các thuốc lợi tiểu thiazide và thuốc chẹn beta thường có liên quan nhất. Estrogen, thuốc chủ vận GnRH và đối kháng, đối kháng H2, và sản xuất hormon hướng sinh dục ức chế spironolactone hoặc ngăn chặn hoạt động của androgen. Thuốc chống trầm cảm và thuốc chống loạn thần, đặc biệt là thuốc an thần kinh, thuốc chống trầm cảm 3 vòng, và các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc-có liên quan đến cương dương, xuất tinh, khoái cảm, và những khó khăn về ham muốn tình dục. Các thuốc giải trí, bao gồm ethanol, cocaine và cần sa, cũng có thể gây ra ED. Bất kỳ rối loạn ảnh hưởng đến tủy cùng hoặc các dây thần kinh hoặc phân bố các sợi thần kinh tự trị ở dương vật có thể dẫn đến rối loạn cương dương.

Đặc điểm lâm sàng

Đàn ông bị rối loạn chức năng tình dục có thể phàn nàn về sự mất ham muốn tình dục, không có khả năng để bắt đầu hoặc duy trì sự cương cứng, không xuất tinh, xuất tinh sớm, hoặc không có khả năng để đạt được cực khoái, nhưng thường là quá xấu hổ nói trừ khi thầy thuốc hỏi cụ thể. Câu hỏi đầu tiên nên tập trung vào các triệu chứng, sự xuất hiện và thời gian cương cứng một phần, tiến triển của rối loạn cương dương, và xuất tinh.

Tiền sử về thay đổi tâm lý, ham muốn tình dục, các vấn đề mối quan hệ, xu hướng tình dục và hành vi tình dục nên được đánh giá trên lâm sàng.

Tiền sử cương dương buổi sáng sớm hoặc đêm là hữu ích cho việc phân biệt cương dương sinh lý với rối loạn cương dương do tâm lý. Yếu tố nguy cơ liên quan phải được xác định, chẳng hạn như đái tháo đường, bệnh mạch vành, rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, bệnh mạch máu ngoại biên, hút thuốc lá, nghiện rượu, và rối loạn nội tiết hoặc rối loạn thần kinh. Nên hỏi tiền sử phẫu thuật của bệnh nhân, đặc biệt phẫu thuật liên quan đường ruột, bàng quang, tuyến tiền liệt, hoặc các can thiệp mạch. Đánh giá bao gồm khám toàn thân chi tiết cũng như khám lâm sàng hệ sinh dục. Lưu ý những bất thường của dương vật (bệnh Peyronie), kích thước tinh hoàn, và vú to ở nam giới.

Nên bắt mạch ngoại vi, và âm thanh trong động mạch nên được nghe bằng ống nghe. Kiểm tra thần kinh nên đánh giá cơ vòng hậu môn, cảm giác đáy chậu, và phản xạ hành hang. Nồng độ testosterone và prolactin huyết thanh nên được xét nghiệm. Chụp động mạch dương vật, ghi điện đồ cơ, hoặc siêu âm Doppler dương vật đôi khi được thực hiện.

Điều trị

Một cách tiếp cận để đánh giá và điều trị ED được tóm tắt trong hình. Nên cố gắng điều chỉnh các rối loạn tiềm ẩn hoặc ngưng dùng thuốc có liên quan. Các thuốc ức chế phosphodiesterase-5 đường uống (sildenafil, tadalafil, vardenafil) tăng cường cương cứng sau khi kích thích tình dục, với thời gian bắt đầu khoảng 60-120 phút.

Chúng được chỉ định ở những người đàn ông đang điều trị nitrat ở bất kỳ hình thức nào và nên chống chỉ định ở những người suy tim sung huyết.

Sơ đồ đánh giá điều trị rối loạn cương dương

Hình. Sơ đồ đánh giá và điều trị bệnh nhân rối loạn cương dương. PDE, phosphodiesterase.

Dùng thiết bị chân không hoặc tiêm alprostadil vào niệu đạo hoặc thể hang cũng có hiệu quả. Lắp bộ phận giả dương vật cho những bệnh nhân bị liệt dương.

Bài viết cùng chuyên mục

Đau hay tê mặt: thần kinh sinh ba (V)

Cần phải phân biệt các hình thức đau mặt phát sinh từ bệnh ở hàm, răng, hay xoang, nguyên nhân ít gặp gồm herpes zoster hay khối u.

Giãn phế quản: nguyên lý nội khoa

Chẩn đoán giãn phế quản phụ thuộc vào biểu hiện lâm sàng, khi có các đấu hiệu Xquang phù hợp, ví dụ như hình ảnh đường ray, dấu hiệu vòng nhẫn.

Ngăn ngừa các biến chứng của bệnh nhân nặng

Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể xảy ra mặc dù có thể dự phòng bằng heparin tiêm dưới da hoặc các thiết bị nén khí liên tục ở chi dưới và có thể xảy ra tại vị trí đặt catheter tĩnh mạch trung ương.

Sụt cân: nguyên lý nội khoa

Hỏi bệnh sử có các triệu chứng đường tiêu hoá, gồm khó ăn, loạn vị giác, khó nuốt, chán ăn, buồn nôn, và thay đổi thói quen đi cầu. Hỏi lại tiền sử đi du lịch, hút thuốc lá, uống rượu.

Phương pháp chẩn đoán bệnh lý hô hấp

Chụp mạch phổi có thể đánh giá hệ mạch phổi trong trường hợp có huyết khối tĩnh mạch nhưng đã được thay thế bởi CT mạch.

Đỏ mắt hoặc đau mắt

Mất thị lực đột ngột hoặc nhìn đôi ở những trường hợp mắt không bị đau và không bị viêm thường là các rối loạn thị giác hoặc thần kinh nghiêm trọng và nên được theo dõi chặt chẽ.

Bạch cầu kinh dòng tủy: nguyên lý nội khoa

Các triệu chứng phát triển từ từ, chóng mệt, mệt mỏi, chán ăn, bụng khó chịu và cảm giác no sớm do lách to, tăng tiết mồ hôi. Thỉnh thoảng các bệnh nhân được phát hiện tình cờ dựa trên số lượng bạch cầu tăng.

Viêm phổi: nguyên lý nội khoa

Trước khi có những biểu hiện lâm sàng, kích thước của vi sinh vật phải lớn hơn khả năng thực bào của đại thực bào và các thành phần khác của hệ miễn dịch.

Biến chứng hội chứng ly giải u khi điều trị ung thư

Khi khối u phát triển nhanh được điều trị với phác đồ hóa trị hiệu quả, các tế nào u sắp chết có thể giải phóng lượng lớn các sản phẩm phân hủy của acid nucleic.

Viêm bàng quang kẽ: nguyên lý nội khoa

Không giống như đau vùng chậu phát sinh từ các nguồn khác, đau do viêm bàng quang kẽ càng trầm trọng hơn khi đổ đầy bàng quang, và giảm khi bàng quang rỗng.

Ung thư đại trực tràng và hậu môn

Phần lớn ung thư đại tràng có nguồn gốc từ các polyp tuyến. Các bậc di truyền từ polyp đến loạn sản thành ung thư tại chỗ, ung thư thâm nhiễm đã được xác định.

Ung thư chưa rõ nguyên phát: nguyên lý nội khoa

Khi khối U đã di căn, các xét nghiệm chẩn đoán nên làm để phát hiện các khối U có khả năng điều trị khỏi, như u limpho, bệnh Hodgkin, u tế bào mầm, ung thư buồng trứng.

Nhiễm khuẩn tiết niệu: nguyên lý nội khoa

Yếu tố nguy cơ của viêm bàng quang cấp gồm sử dụng màng ngăn diệt tinh trùng gần đây, quan hệ tình dục thường xuyên, tiền sử nhiễm trùng tiết niệu.

Táo bón: nguyên lý nội khoa

Thay đổi nhu động đại tràng do rối loạn chức năng thần kinh, đái tháo đường, tổn thương tuỷ sống, đa xơ cứng, bệnh Chagas, bệnh Hirschsprung, giả tắc ruột mạn tính vô căn.

Sỏi mật: nguyên lý nội khoa

Phần lớn sỏi mật phát triển thầm lặng nghĩa là bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng gì. Triệu chứng xuất hiện khi sỏi gây viêm hoặc tắc ống túi mật hoặc ống mật chủ.

Bệnh thoái hóa dạng bột: nguyên lý chẩn đoán và điều trị

Bệnh thoái hóa dạng bột được xác định bởi tính chất sinh hóa của protein trong sự lắng đọng các sợi và được phân loại theo toàn thân hay tại chỗ, mắc phải hay di truyền.

Globulin miễn dịch đơn dòng và bệnh thận

Chẩn đoán bệnh thận do trụ dựa vào phát hiện thấy chuỗi nhẹ trong huyết thanh và/hoặc nước tiểu, thường bằng điện di protein và immunofixation.

Các bệnh rối loạn quanh khớp

Kết quả của sự bất động khớp vai kéo dài, Vai đau và nhạy cảm khi sờ nắn, cả vận động chủ động và thụ động đều bị hạn chế.

Ung thư da biểu mô tế bào vảy: nguyên lý nội khoa

Hay gặp nhất là cắt bỏ tại chỗ và phẫu thuật vi phẫu Mohs; xạ trị một số ca chọn lọc. Bệnh di căn có thể điều trị bằng xạ trị hoặc liệu pháp sinh học kết hợp.

Chèn ép tủy sống do u tân sinh

Triệu chứng thường gặp nhất là căng đau lưng khu trú, kèm các triệu chứng về tổn thương thần kinh sau đó. MRI cấp cứu được chỉ định khi nghi ngờ chẩn đoán.

Tăng thân nhiệt: nguyên lý nội khoa

Khó phân biệt được sốt hay tăng thân nhiệt. Bệnh sử thường rất hữu ích, ví dụ tiền căn tiếp xúc nhiệt độ hay điều trị bằng các loại thuốc ảnh hưởng đến quá trình điều nhiệt.

Nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng

Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến nhiễm trùng huyết tăng theo tuổi và tình trạng bệnh trước đó, với hai phần ba các trường hợp xảy ra trên bệnh nhân có các bệnh lý kèm theo nặng.

Chấn thương đầu: nguyên lý nội khoa

Thay đổi tri giác kéo dài có thể do máu tụ trong nhu mô não, dưới màng nhện hay ngoài màng cứng tổn thương sợi trục lan tỏa trong chất trắng.

Viêm cột sống dính khớp: nguyên lý chẩn đoán và điều trị

MRI là lựa chọn khi phim x quang không chuẩn bị không cho thấy bất thường khớp cùng-chậu và có thể cho thấy viêm nội khớp sớm, thay đổi sụn.

Tiếp cận bệnh nhân sốc: nguyên lý nội khoa

Mặc dù hạ huyết áp thì thường thấy được trong sốc, nhưng không có một ngưỡng huyết áp riêng nào để xác định được sốc. Sốc có thể là do giảm lưu lượng máu.