- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm cơ tim cấp gây ra viêm ổ hoặc lan toả. Hầu hết các trường hợp là do nhiễm trùng như nhiễm virus, vi khuẩn, rickettsia, nấm hoặc các ký sinh trùng, nhưng các độc tố, các thuốc và các phản ứng miễn dịch cũng có thể gây viêm cơ tim.
Những điểm cơ bản trong chẩn đoán
Thường tiếp sau nhiễm khuẩn hô hấp.
Có thể biểu hiện bằng đau ngực (viêm màng phổi hoặc không đặc hiệu), các dấu hiệu của suy tim, rối loạn nhịp tim
Điện tâm đồ có thể cho thấy nhịp nhanh xoang, những thay đổi tái cực không đặc hiệu, rối loạn dẫn truyền trong thất.
Siêu âm cho thấy tim to và rối loạn chức năng co bóp.
Sinh thiết cơ tim có thể cho thấy một kiểu viêm đặc hiệu.
Nhận định chung
Viêm cơ tim do virus là hình thái thường gặp nhất và thường do coxsackie virus gây ra, nhưng một vật chủ của những mắm bệnh khác cũng có vai trò. Viêm cơ tim do rickettsia xảy ra cùng với bệnh sốt rickettsia, sốt vùng núi Rocky, sốt Q. Viêm cơ tiin bạch hầu là do độc tố gây ra và thường biểu hiện bằng rối loạn dẫn truyền cũng như suy tim.
Bệnh Chagas do động vật đơn bào trypanosoma cruzi gây ra, là một hỉnh thái viêm cơ thường gặp ở Trung và Nam Phi. Quá trình viêm cấp tính có thể xảy ra, những những biều hiện lâm sàng chủ yếu xuất hiện sau một giai đoạn tiềm tàng hơn 10 ngày, ở giai đoạn này, các bệnh nhân có biểu hiện như bệnh cơ tim, suy tim ứ trệ, rối loạn dẫn truyền và chết đột ngột. Tổn thương dạ dày ruột kết hợp (thực quản to vấ đại tràng to) rất thường gặp. Bệnh do toxoplasma gây viêm cơ thì thường không có triệu chứng nhưng có thể dẫn tới suy tim. Trong số nhiễm ký sinh trùng, bệnh giun xoắn là nguyên nhân thường gặp nhất của tổn thương tim. Khả năng virus HIV gây viêm cơ tim hiện nay đã được ghi nhận, mặc dù tỷ lệ của biến chứng này còn chưa được biết và nó là nguyên nhân ít gặp của bệnh tử vong trong AIDS. Hơn nữa viêm cơ tim do các nhiễm khuẩn khác thường thấy hơn ở các bệnh nhân bị AIDS.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó. Thường có đau ngực do màng phổi, màng tim. Các triệu chứng toàn thân không đặc hiệu cũng thường có. Thăm khám thấy nhịp tim nhanh, nhịp ngựa phi và các dấu hiệu khác của suy tim hoặc rối loạn dẫn truyền.
Điện tâm đồ và phim X quang lồng ngực
Những thay đổi không đặc hiệu của đoạn ST - T và rối loạn dẫn truyền cũng thường gặp. Ngoại tâm thu thất có thể là dấu hiệu đầu tiên và là dấu hiệu lâm sàng duy nhất. Phim X quang ngực thường không đặc hiệu.
Các xét nghiệm chẩn đoán
Siêu âm cho thấy là cách tốt nhất để dánh giá chức nâng tim và có thể loại trừ nhiều bệnh lý khác. Chụp nhấp nháy bằng Gallium 67 đã được báo cáo có thể mang lại các dữ liệu về tim trong viêm cơ tim cấp hoặc bán cấp. Chuẩn độ virus huyết thanh là đối chứng và các xét nghiệm huyết thanh học đối với các tác nhân gây bệnh khác có thể cho thấy nguyên nhân.
Sinh thiết cơ tim
Xét nghiệm giải phẫu bệnh có thể cho thấy phản ứng tế bào viêm bao quanh và hoại tử đốm. Hình ảnh này xác định một giai đoạn viêm "hoạt động" và có thể đã tồn tại từ nhiều tháng.
Điều trị và tiên lượng
Điều trị kháng khuẩn đặc hiệu được chỉ định nếu như có thể phát hiện được tác nhân gây bệnh. Các nghiên cứu quan sát đã chứng tỏ rằng liệu pháp miễn dịch bằng corticosteroid và các thuốc khác có thể làm cải thiện được kết quả khi quá trình bệnh là cấp tính (< 6 tháng) và sinh thiết cho thấy quá trình viêm đang xảy ra. Tuy nhiên, các thử nghiệm có đối chứng đã không thấy kết quả dương tính, chính vì vậy giá trị sinh thiết của cơ tim thường quy ở các bệnh nhận có biểu hiện một bệnh cảnh viêm cơ tim cấp là không chắc chắn. Điều trị ức chế miễn dịch theo lối kinh nghiệm mà không có xác nhận của tế bào học là không xác đáng. Mặt khác việc điều trị phải trực tiếp hướng tới các biểu hiện suy tim và các rối loạn nhịp.
Nhiều trường hợp khỏi tự phát nhưng nhiều trường hợp khác ohức năng tim xấu dần và có thể thành bệnh cơ tim dãn. Những tài liệụ mới đây sử dụng các kỹ thuật sinh thiết phân tử chứng tỏ rằng nhiều trường hợp bệnh cơ tim dãn tự phát có thể là giai đoạn cuối của bệnh cơ tim do virus.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Tạo nhịp tim vĩnh viễn
Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.
Tràn dịch màng ngoài tim
Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Phù phổi cấp
Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.
Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất
Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Còn ống động mạch
Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Thông liên nhĩ
Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Block nhĩ thất
Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.
Phân ly nhĩ thất và rối loạn dẫn truyền trong thất
Tiên lượng của blốc trong thất nói chung là tùy thuộc vào bệnh tim cơ sở. Ngay cả trong blổc hai phân nhanh, tỷ lệ blôc tim hoàn toàn huyền bí hoặc tiến triển tới hình thái blốc này rất thấp và tạo nhịp thường là không xác đáng.
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Ngoại tâm thu nhĩ
Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Ngoại tâm thu thất
Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.
Bệnh tăng huyết áp
Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
