Hẹp van động mạch chủ

2016-10-25 02:56 PM

Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm cơ bản trong chẩn đoán

Ở người lớn thường không có triệu chứng cho đến tuổi trung niên hoặc già.

Mạch cảnh đập chậm và yếu.

Tiếng thứ hai yếu hoặc mất hoặc tách đôi nghịch thường.

Tiếng thổi tâm thu thô ráp, đôi khi có rung miu dọc theo bờ trái xương ức, thường lan tới cổ; có thể to hơn ở mỏm với những bệnh nhân lớn tuổi.

Điện tâm đồ thường cho thấy dầy thất trái; calci hóa van trên phim X quang hoặc trên màn huỳnh quang. Siêu âm Doppler xác nhận chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp.

Nhận định chung

Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.

Trên 80% bệnh nhân là nam giới. Hẹp van phải được phân biệt với hẹp trên van và hẹp đường ra thất trái, cả hai đều tương đối hiếm gặp.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Các lá van hẹp nhẹ dày hoặc thô ráp (xơ hóa van động mạch chủ) hoặc giãn động mạch chủ có thể gây ra tiếng thổi và rung điển hình mà không gây ra rối loạn huyết động rõ rệt. Ở những trường hợp nhẹ hoặc trung bình dấu hiệu đặc trưng là tiếng thổi tâm thu ở vùng van động mạch chủ lan lên cổ và xuống mỏm; Trong những trường hợp nặng, sự phập phồng của thất trái hoặc rung miu có thể sờ thấy rõ rệt, tiếng thứ hai của van động mạch chủ yếu hoặc mất hoặc có sự tách đôi đảo ngược của tiếng thứ hai. Khi diện tích van dưới 0,8 - 1 cm2 (bình thường là 3 – 4 cm2), thời kỳ tâm thu của tâm thất dài hơn và kiểu nảy chậm và yếu điển hình ở động mạch cảnh, nhưng đây có thể là dấu hiệu không đáng tin cậy ở những người già xơ cứng động mạch nặng. Phì đại thất trái tăng dần, dẫn tới tăng áp lực tâm trương. Cung lượng tim vẫn được duy trì cho tới khi van bị hẹp nặng (với diện tích lỗ van dưới < 0,8 cm2). Bệnh nhân có thể có suy thất trái, đau ngực hoặc ngất.

Triệu chứng suy thất trái có thể tiến triển dần dần. Đau thắt ngực thường xảy ra trong hẹp van động mạch chủ. Một nửa số bệnh nhân có hẹp van động mạch chủ do calci hòá và đau thắt ngực cổ sự kết hợp rõ rệt với bệnh mạch vành, trái lại bệnh mạch vành chỉ thấy ở một nửả tần số này khi khống có đau thắt ngực. Ngất khi gắng sức rất điển hinh và có thể do rối loạn hhịp (thường là nhịp nhanh thất nhưng đôi khi là nhịp nhanh xoang), hạ huyết áp hoặc tưới máu não giảm do tăng dòng máu tới cơ khi gắng sức mà không có sự tăng cung lượng tim bù lại. Chết đột ngột có thể xảy ra ngay cả ở những người không có triệu chứng trước đó.

Các thăm dò chển đoán

Việc đánh giá lâm sàng hẹp van động mạch chủ có thể là khó, đặc biệt ở những bệnh nhân già. Điện tâm đồ cho thấy dầy thất trái hoặc những thay đổi tái cực ở hầu hết các bệnh nhân, nhưng cũng có thể bình thường ở trên 10% các trường hợp. Phim X quang ngực có thể cho thấy bóng tim bình thường hoặc to, sự calci hóa động mạch chủ lên. Siêu âm cho thấy những dấu hiệu hữu ích về calci hóa van động mạch chủ, sự mở cửa van và độ dày của thành cũng như chức năng thất trái. Siêu âm Doppler có thể ước lượng sự chênh áp qua van động mạch chủ. Những số liệu này có thể loại trừ hoặc chẩn đoán khá chính xác các trường hợp hẹp nặng. Ở những bệnh nhân có tắc nghẽn vừa phải, đặc biệt là có cung lượng tim thấp hoặc hở đồng thời thì những đánh giá này có thể không chính xác.

Thông tim là thăm dò chẩn đoán xác định chính xác. Nó cho phép đo độ chênh áp qua van và tính toán được diện tích lỗ van. Khi diện tích Ịỗ van dưới 0,8 cm2 chứng tỏ là hẹp nặng. Chụp gốc động mạch chủ có thể xác định mức độ hở van động mạch chủ. Nên tiến hành chụp động mạch vành ở hầu hết các bệnh nhân người lớn bị hẹp van động mạch chủ.

Tiên lượng và điều trị

Sau khi xuất hiện suy tim, đau thắt ngực hoặc ngất thì tiên lượng bệnh không được phẫu thuật sẽ xấu (tỷ lệ tử vong sau 3 năm là 50%). Điều trị bằng thuốc có thể làm ổn định suy tim, nhưng phẫu thuật phải được chỉ định cho tất cả những bệnh nhân có triệu chứng, kể cả những bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái, và thường chức năng thất trái được cải thiện sau phẫu thuật. Các bệnh nhân không có triệu chứng sẽ có nguy cơ chết đột ngột. Thay van nên được xem xét cho những trường hợp có chênh áp qua van nặng ( > 60 - 80mmHg ); hoặc phì đại thất trái nặng lên.

Tỷ lệ tử vong phẫu thuật đối với thay van là 2 - 5%, nhưng nó tăng lên tới 10% ở những bệnh nhân trên 70 tuổi. Những tổn thương mạch vành nặng thường được bắc cầu nối đồng thời. Chống đông máu bằng warfarin là cần thiết đối với van cơ học nhưng không nhất thiết với van giả sinh học. Van giả sinh học thường bị thoái hóa và cần phải phẫu thuật lại sau 7 - 10 năm. Nhiều bệnh nhân tiếp tục cơ rối loạn dẫn truyền hoặc rối loạn nhịp thất sau phẫu thuật.

Gần đây, nhiều trung tâm đã bắt đầu thực hiện nong van bằng bóng cho bệnh nhân hẹp van động mạch chủ. Hẹp có thể giảm bớt trong hầu hết các trường hợp nhưng tỷ lệ tử vong của thủ thuật gần bằng với tỷ lệ tử vong của phẫu thuật trừ ở những người có nguy cơ rất cao. Hẹp lại xảy ra vào khoảng 50% các trường hợp trong 6 - 12 tháng đầu. Phương pháp này nên đựợc cân nhắc chỉ hạn chế sử dụng cho những người khó có khả năng phẫu thuật hoặc đó là biện pháp trung gian nhằm ổn định cho những bệnh nhân có nguy cơ cao trước khi phẫu thuật.

Bài viết cùng chuyên mục

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ

Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Tim nhanh kịch phát trên thất

Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Hẹp động mạch phổi

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Nhịp nhanh thất và rung thất

Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Hở van hai lá

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Ngoại tâm thu thất

Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.

Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực

Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.

Nhịp tự thất gia tốc

Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis

Hội chứng QT dài

Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.

Các rối loạn nhịp xoang

Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Bệnh tim và phẫu thuật

Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Phù phổi cấp

Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.

Suy tim: chẩn đoán và điều trị

Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.