Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

2016-10-29 11:51 AM

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Theo dõi liên tục điện tâm đồ

Cách lý tưởng để xác định mối quan hệ nhân quả giữa một triệu chứng và một rối loạn nhịp là phải chứng minh được sự hiện diện của rối loạn nhịp trong thời gian xảy ra triệu chứng. Đáng tiếc là, điều này không phải luôn luôn dễ dàng bởi vì triệu chứng thường xảy ra từng lúc một.

Những bệnh nhân vừa thoát khỏi chết đột ngột, và ngất mới đây hoặc tái phát thường được theo dõi trong bệnh viện. Những bệnh nhân với các triệu chứng ít đe doạ sự sống có thể được theo dõi như bệnh nhân ngoại trú. Khi các cơn xảy ra không thường xuyên, sử dụng thiết bị ghi kết quả là thích hợp hơn. Nghiệm pháp gắng sức có thể giúp ích khi các triệu chứng kết hợp với gắng sức hoặc stress. Nếu như nhịp chậm có triệu chứng hoặc tim nhanh trên thất được phát hiện, việc điều trị thường được bắt đầu mà không cần làm thăm dò chẩn đoán thêm. Những thăm dò điện sinh lý thêm nữa có thể hữu ích trong việc đánh giá những rối loạn nhịp thất nhanh.

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời. Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng là do các rối loạn nhịp khác gây ra hoặc do các nguyên nhân ngoài tim. Ví dụ, trong đánh giá choáng váng hoặc ngất ở những bệnh nhân già, nhịp chậm, những bất thường nút xoang và ngoại tâm thu thất là những cái thường được phát hiện nhưng có thể không có liên quan gì với các triệu chứng. Theo dõi liên tục di động thường được sử dụng để xác định số lượng ngoại tâm thu thất và phát hiện tim nhanh thất không có triệu chứng ở những bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim hoặc suy tim. Đáng tiếc là, trong khi các rối loạn nhịp thất không có triệu chứng có hàm ý tiên lượng không tốt thì vẫn không có tài liệu nào ủng hộ các biện pháp điều trị đặc hiệu. Như vậy theo dõi những người không có triệu chứng thường không được chỉ định.

Thăm dò điện sinh lý học

Thăm dò điện sinh lý gồm ghi điện tâm đồ trong buồng tim và kích thích có chương trình tâm nhĩ hoặc thất hoặc cả hai đã trở nên rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị rối loạn nhịp.

Những chỉ định hàng đầu để thăm dò điện sinh lý là: (1) Đánh giá khả năng nguồn gốc tại tim của những trường hợp ngất tái phát, khi mà điện tâm đồ di động không thể đưa ra được chẩn đoán. (2) Đánh giá hiệu quả của điều trị thuốc ở những người thoát khỏi chết đột ngột hoặc những bệnh nhân có rối loạn nhịp thất nhanh có triệu chứng hoặc đe doạ tính mạng; (3) Chẩn đoán phân biệt rối loạn nhịp trên thất với rối loạn nhịp thất; (4) Đánh giá kết quả điều trị ở những bệnh nhân có đường dẫn truyền phụ nhĩ thất và (5) Đánh giá những bệnh nhân có thiết bị tạo nhịp chống nhịp nhanh và phẫu thuật hoặc thủ thuật chớp điện qua ống thông.

Điện tâm đồ dấu hiệu trung bình

Một phương pháp mới để đánh giá và dự đoán là điện tâm đồ dấu hiệu trung bình (Signal-Averaged ECG - SAECG).

Thủ thủật này phân tích 100 hoặc nhiều hơn các chu chuyển tim để tìm ra bản điện tâm đồ có độ phân giải cao sau đó nó được lọc làm tăng tối đa khả năng phát hiện các điện thế có tần số cao. Dấu hiệu điện thế muộn tiếp theo sau QRS chứng tỏ nền tảng có thể có một rối loạn nhịp thất. Chúng thường thấy nhất và có giá trị tiên lượng rất lớn ở bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim. Trong nhóm này sự vắng mặt của điện thế muộn chứng tỏ một mối nguy cơ thấp đối với những rối loạn nhịp thất nặng nề và chết đột ngột. Trong khi mà tính chính xác dự đoán của một SAECG dương tính còn rất thấp thì nó được xem như là một nghiệm pháp sàng lọc các bệnh nhân cần làm thăm dò điện sinh lý. Tuy nhiên, hiện nay chưa có đầy đủ các số liệu để ủng hộ phương pháp này ở những bệnh nhân sau nhồi máu không có triệu chứng thậm chí cả khi họ có tim nhanh thất không bền bi. Trái lại những bệnh nhân có triệu chứng tồn tại cùng với rối loạn nhịp đòi hỏi phải đánh giá thêm nữa và điều trị bất kể kết quả của SAECG thế nào. Giá trị của SAECG ở những bệnh nhân không có bệnh tim thiếu máu cục bộ còn chưa rõ ràng.

Thăm dò thần kinh tự trị

Ở nhiều bệnh nhân có ngất tái phát hoặc thoáng ngất, rối loạn nhịp không phải là nguyên nhân. Điều này đặc biệt đúng khi bệnh nhân không có bằng chứng của các bệnh tim kết hợp trong tiền sử khi thăm dò không xâm nhập. Ngất có thể có nguyên nhân thần kinh tim, gián tiếp qua kích thích phó giao cảm quá mức hoặc mất cân bằng giữa hoạt động thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Với tư thế đứng thẳng có sự tích máu tĩnh mạch của chi dưới. Tuy nhiên thay thế sự đáp ứng bình thường, nó bao gồm tăng tần số tim và co thắt mạch, tăng sức co bóp cơ tim qua trung gian giao cảm làm hoạt hóa các thụ thể cơ học làm nảy cò nhịp chậm phản xạ và dãn tĩnh mạch. Thăm dò thần kinh tự trị là một phần quan trọng của việc đánh giá những người này và nên tiến hành trước các thăm dò điện sinh lý có xâm nhập. Xoa xoang cảnh ở những bệnh nhân không có tiếng dồn mạch cảnh hoặc một tiền sử bệnh mạch máu não, có thể thúc đầy ngừng xoang hoặc blôc nhĩ thất ở những bệnh nhân có tăng nhạy cảm xoang cảnh. Nghiệm pháp đầu cao bàn nghiêng có thể phát hiện ra những bệnh nhân mà ngất của họ có thể có cơ sở mạch thần kinh phế vị. Mặc dù các đề cương của nghiệm pháp khác nhau được sử dụng nhưng nghiêng thụ động tới ít nhất 70 độ trong 10 - 40 phút kết hợp truyền isoproterenol, nếu cần thiết, là điển hình. Ngất do nhịp chậm, hạ huyết áp hoặc cả hai xảy ra ở vào khoảng 1/3 các bệnh nhân có ngất tái phát. Một số nghiên cứu mới đây đã cho thấy rằng, ít nhất với một vài trong số các đề cương cực kỳ khắc nghiệt thì đáp ứng dương tính giả có thể xảy ra.

Các thuốc chống loạn nhịp

Các thuốc chống loạn nhịp có hiệu quả có giới hạn và thường sinh ra những tác dụng không mong muốn. Chúng thường được chia thành 4 nhóm dựa vào hoạt động điện dược học của chúng.

Nhóm I

Các thuốc chẹn dòng natri qua màng, nó còn được chia thành 3 phân nhóm dựa vào tác dụng của các thuốc đến điện thế hoạt động của sợi Purkinje. Loại la gồm các thuốc làm chậm tốc độ đi lên của đường cong điện thế hoạt động (Vmax) và kéo dài thời gian điện thế hoạt động như vậy sẽ làm chậm dẫn truyền và tăng giai đoạn trơ. Các thuốc nhóm Ib rút ngắn thời gian điện hoạt động, chúng không ảnh hưởng đến dẫn truyền và giai đoạn trơ. Các thuốc nhóm Ic kéo dài Vmax và làm chậm tái cực, như vậy sẽ làm chậm dẫn truyền và kéo dài thời kỳ trơ nhưng khá nhiều hơn so với các thuốc nhóm la.

Nhóm II

Các thuốc nhóm II là các thuốc chẹn beta, nó làm giảm tính tự động, kéo dài dẫn truyền nhĩ thất và kéo dài thời kỳ trơ.

Nhóm III

Các thuốc chẹn dòng kali và kéo dài tái cực, làm rộng QRS và kéo dài khoảng QT. Chúng làm giảm tính tự động và dẫn truyền nhĩ thất và kéo dài thời kỳ trơ.

Nhóm IV

Các thuốc chẹn dòng calci chậm, làm giảm tính tự động và dẫn truyền nhĩ thất.

Mặc dù các tác dụng điện sinh học của các thuốc này ở ngoài cơ thể đã được xác định, việc sử dụng chúng vẫn còn theo lối kinh nghiệm là chủ yếu. Tất cả các thuốc chống loạn nhịp này có thể làm nặng lên các rối loạn nhịp (tác dụng gây loạn nhịp) và hầu hết đều ức chế chức năng thất trái.

Nguy cơ của các thuốc chống loạn nhịp mới đây đã được làm sáng tỏ qua thử nghiệm điều trị rối loạn nhịp do bệnh mạch vành (CAST) trong đó hai thuốc nhóm  Ic (flecainid và encainid) và một thuốc nhóm la (moricizin) đã làm tăng tỉ lệ tử vong ở những bệnh nhân bị ngoại tâm thu thất không có triệu chứng sau nhồi máu cơ tim. Bởi vậy, các thuốc nhóm Ic và có lẽ bất kỳ một thuốc chống loạn nhịp nào không nên được sử dụng trừ khi rối loạn nhịp đe dọa cuộc sống và các tim nhanh trên thất có triệu chứng. Quyết định tiến hành điều trị ngoại tâm thu thất không có triệu chứng bằng bất kỳ thuốc chống loạn nhịp nào cần phải được cân nhắc cẩn thận.

Bài viết cùng chuyên mục

Cấp cứu tăng huyết áp

Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Bệnh tim và phẫu thuật

Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.

Viêm màng ngoài tim co thắt

X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.

Tràn dịch màng ngoài tim

Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Bệnh cơ tim hạn chế

Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc

Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.

Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.

Phù phổi cấp

Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.

Suy tim: chẩn đoán và điều trị

Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.

Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim

Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Phân ly nhĩ thất và rối loạn dẫn truyền trong thất

Tiên lượng của blốc trong thất nói chung là tùy thuộc vào bệnh tim cơ sở. Ngay cả trong blổc hai phân nhanh, tỷ lệ blôc tim hoàn toàn huyền bí hoặc tiến triển tới hình thái blốc này rất thấp và tạo nhịp thường là không xác đáng.

Block nhĩ thất

Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Hội chứng QT dài

Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.

Nhịp tự thất gia tốc

Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis

Nhịp nhanh thất và rung thất

Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.

Ngoại tâm thu thất

Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Rung nhĩ và cuồng động nhĩ

Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.

Tim nhanh kịch phát trên thất

Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.

Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất

Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.

Ngoại tâm thu nhĩ

Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.

Các rối loạn nhịp xoang

Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Điều trị sau nhồi máu cơ tim

Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Nhồi máu cơ tim cấp

Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.

Đau thắt ngực không ổn định

Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.

Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực

Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.

Đau thắt ngực

Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.

Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ

Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Lựa chọn và theo dõi các van tim giả

Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.

Hẹp hở van ba lá

Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị

Hở van động mạch chủ

Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.

Hẹp van động mạch chủ

Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.

Hở van hai lá

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Thông liên thất

Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.

Còn ống động mạch

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.

Thông liên nhĩ

Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.

Hẹp eo động mạch chủ

Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.

Hẹp động mạch phổi

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.

Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch

Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Điều trị tăng Cholesterol LDL

Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.

Lipid máu và các bất thường về lipid

Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein