- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chết đột ngột do tim được định nghĩa là những cái chết không do chấn thương, không ngờ tới ở những người khỏe mạnh hoặc ổn định về lâm sàng, những bệnh nhân này chết trong vòng 1 giờ từ khi khởi phát triệu chứng. Trong hầu hết các trường hợp nguyên nhân thường là rung thất xảy ra trước, hoặc blốc tim hoàn toàn, họặc ngừng xoang cũng có thể gây ra chết đột ngột. Một tỷ lệ mất cân đối các trường hợp chết đột ngột xảy ra vào những giờ sáng sớm trên 75% các nạn nhân chết đột ngột do tim có bệnh mạch vành. Nhiều người có nhồi máu cơ tim cũ. Chết đột ngột có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh mạch vành ở tới 20% các bệnh nhân và chiếm khoảng 50% các trường hợp chết đột ngột do bệnh mạch vành.
Khi rung thất xảy ra trong 24 giờ đầu sau nhồi máu, việc điều trị dài hạn sẽ không khác với điều trị các bệnh nhân khác dẫn đến nhồi máu cơ tim cấp. Các tình trạng khác dẫn đến chết đột ngột gồm: phì đại thất trái nặng, bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim ứ trệ, hẹp van động mạch chủ, hẹp động mạch phổi, tăng áp lực phổi tiên phát, bệnh tim bẩm sinh có tím, u nhầy nhĩ, sa van hai lá, hạ oxy máu, rối loạn điện giải máu, hội chứng QT dài và bệnh hệ thống dẫn truyền. Những nghiên cứu mới đây chứng tỏ rằng việc phát hiện những điện thế muộn (sau phức bộ QRS) trên một điện tâm đò bề mặt trung bình các dấu hiệu ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim trước đó có thể phát hiện ra một nhóm bệnh nhân có nguy cơ rối loạn nhịp thất hoặc chết đột ngột.
Trừ khi rung thất xảy ra sớm sau nhồi máu cơ tim hoặc quá trình bệnh lý có thể điều trị được xảy ra (như rối loạn điện giải, nhiễm độc thuốc, hoặc hẹp van động mạch chủ) những bệnh nhân này nên được thăm dò tăng cường thêm. Nghiệm pháp gắng sức hoặc chụp động mạch vành nên được thực hiện để loại trừ bệnh mạch vành như là nguyên nhân cơ sở. Những rối loạn dẫn truyền nên được điều trị như đã mô tả ở trên. Nếu những rối loạn nhịp thất nặng như tim nhanh thất bền bỉ hoặc không bền bỉ, ngoại tâm thu thất dày được phát hiện bằng theo dõi điện tâm đồ di động, việc loại bỏ chúng bằng thuốc có thể dự phòng được các cơn tiếp sau. Các thăm dò kích thích thất được chỉ định đặc biệt nếu như theo dõi liên tục điện tâm đồ không phát hiện thấy rối loạn nhịp thất rõ rệt. Nếu như rối loạn nhịp không thể dự phòng được bằng các thuốc thông thường hoặc các rối loạn nhịp không xoá bỏ được, amiodaron hoặc chẹn beta giao cảm có thể vẫn có hiệu quả. Máy phá rung cấy tự động là một phương pháp có thể lựa chọn đặc biệt là ở những bệnh nhân rối loạn nhịp bền bỉ không thể gây ra hoặc loại bỏ được.
Những bệnh nhân bị chết đột ngột, ngất tái phát do rối loạn nhịp thất, hoặc đã được chứng minh là tim nhanh thất bền bỉ mặc dù các biện pháp này đã được sử dụng, nên tiến hành chớp điện phá bỏ ổ gây cơn hoặc cấy một máy phá rung tự động.
Những khuyến cáo đối với việc lái xe trờ lại:
Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô. Theo một nghiên cứu ấn hành năm 1991, chỉ có 8 tình trạng có những luật đặc biệt giải quyết vấn đề này, trái lại 42 tình trạng có luật cấm lái xe ở những người có những cơn co giật động kinh. Không có đủ bằng chứng để ủng hộ cấm lái xe ở những bệnh nhân không bị các rối loạn nhịp có triệu chứng, mặc dù bệnh nhân hay bị tim nhanh thất không bền bỉ, bệnh tim kết hợp, rối loạn chức năng thất trái rõ rệt có mối nguy cơ đủ cao để phải thận trọng. Những bệnh nhân bị ngất hoặc thoát khỏi chết đột ngột do các yếu tố tạm thời (nhồi máu cơ tim cấp, nhịp chậm đã được điều trị bằng máy tạo nhịp vĩnh viễn, tác dụng của thuốc, rối loạn điện giải) nên được phép tiếp tục lái xe sau khi đã hồi phục và sau một giai đoạn theo dõi thích hợp (thường 1 tháng). Các bệnh nhân khác bị tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát chết đột ngột hoặc bằng điêu trị thuốc cần thiết bị chống loạn nhịp hoặc bằng chớp điện, sóng cao tần thì không nên lái xe ít nhất 6 tháng. Sự hạn chế dài hơn sẽ áp dụng cho những bệnh nhân này nếu như rối loạn nhịp tự phát tồn tại. Người thầy thuốc nên tuân theo các qui tắc của địa phương và bàn bạc với các nhà chức trách địa phương trong từng trường hợp riêng biệt.
Bài viết cùng chuyên mục
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Cấp cứu tăng huyết áp
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Còn ống động mạch
Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.
Lipid máu và các bất thường về lipid
Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein
Suy tim: chẩn đoán và điều trị
Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.
Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý
Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.
Bệnh tim do phổi
Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch
Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Các khối u tim
Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.
Các biến chứng của nhồi máu cơ tim
Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.
Tăng áp động mạch phổi tiên phát
Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.
Hẹp hở van ba lá
Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Nhồi máu cơ tim cấp
Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.
Nhịp tự thất gia tốc
Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis
Hẹp eo động mạch chủ
Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.
Block nhĩ thất
Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.
