Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim

2016-10-31 03:06 PM

Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Chết đột ngột do tim được định nghĩa là những cái chết không do chấn thương, không ngờ tới ở những người khỏe mạnh hoặc ổn định về lâm sàng, những bệnh nhân này chết trong vòng 1 giờ từ khi khởi phát triệu chứng. Trong hầu hết các trường hợp nguyên nhân thường là rung thất xảy ra trước, hoặc blốc tim hoàn toàn, họặc ngừng xoang cũng có thể gây ra chết đột ngột. Một tỷ lệ mất cân đối các trường hợp chết đột ngột xảy ra vào những giờ sáng sớm trên 75% các nạn nhân chết đột ngột do tim có bệnh mạch vành. Nhiều người có nhồi máu cơ tim cũ. Chết đột ngột có thể là biểu hiện đầu tiên của bệnh mạch vành ở tới 20% các bệnh nhân và chiếm khoảng 50% các trường hợp chết đột ngột do bệnh mạch vành.

Khi rung thất xảy ra trong 24 giờ đầu sau nhồi máu, việc điều trị dài hạn sẽ không khác với điều trị các bệnh nhân khác dẫn đến nhồi máu cơ tim cấp. Các tình trạng khác dẫn đến chết đột ngột gồm: phì đại thất trái nặng, bệnh cơ tim phì đại, bệnh cơ tim ứ trệ, hẹp van động mạch chủ, hẹp động mạch phổi, tăng áp lực phổi tiên phát, bệnh tim bẩm sinh có tím, u nhầy nhĩ, sa van hai lá, hạ oxy máu, rối loạn điện giải máu, hội chứng QT dài và bệnh hệ thống dẫn truyền. Những nghiên cứu mới đây chứng tỏ rằng việc phát hiện những điện thế muộn (sau phức bộ QRS) trên một điện tâm đò bề mặt trung bình các dấu hiệu ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim trước đó có thể phát hiện ra một nhóm bệnh nhân có nguy cơ rối loạn nhịp thất hoặc chết đột ngột.

Trừ khi rung thất xảy ra sớm sau nhồi máu cơ tim hoặc quá trình bệnh lý có thể điều trị được xảy ra (như rối loạn điện giải, nhiễm độc thuốc, hoặc hẹp van động mạch chủ) những bệnh nhân này nên được thăm dò tăng cường thêm. Nghiệm pháp gắng sức hoặc chụp động mạch vành nên được thực hiện để loại trừ bệnh mạch vành như là nguyên nhân cơ sở. Những rối loạn dẫn truyền nên được điều trị như đã mô tả ở trên. Nếu những rối loạn nhịp thất nặng như tim nhanh thất bền bỉ hoặc không bền bỉ, ngoại tâm thu thất dày được phát hiện bằng theo dõi điện tâm đồ di động, việc loại bỏ chúng bằng thuốc có thể dự phòng được các cơn tiếp sau. Các thăm dò kích thích thất được chỉ định đặc biệt nếu như theo dõi liên tục điện tâm đồ không phát hiện thấy rối loạn nhịp thất rõ rệt. Nếu như rối loạn nhịp không thể dự phòng được bằng các thuốc thông thường hoặc các rối loạn nhịp không xoá bỏ được, amiodaron hoặc chẹn beta giao cảm có thể vẫn có hiệu quả. Máy phá rung cấy tự động là một phương pháp có thể lựa chọn đặc biệt là ở những bệnh nhân rối loạn nhịp bền bỉ không thể gây ra hoặc loại bỏ được.

Những bệnh nhân bị chết đột ngột, ngất tái phát do rối loạn nhịp thất, hoặc đã được chứng minh là tim nhanh thất bền bỉ mặc dù các biện pháp này đã được sử dụng, nên tiến hành chớp điện phá bỏ ổ gây cơn hoặc cấy một máy phá rung tự động.

Những khuyến cáo đối với việc lái xe trờ lại:

Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô. Theo một nghiên cứu ấn hành năm 1991, chỉ có 8 tình trạng có những luật đặc biệt giải quyết vấn đề này, trái lại 42 tình trạng có luật cấm lái xe ở những người có những cơn co giật động kinh. Không có đủ bằng chứng để ủng hộ cấm lái xe ở những bệnh nhân không bị các rối loạn nhịp có triệu chứng, mặc dù bệnh nhân hay bị tim nhanh thất không bền bỉ, bệnh tim kết hợp, rối loạn chức năng thất trái rõ rệt có mối nguy cơ đủ cao để phải thận trọng. Những bệnh nhân bị ngất hoặc thoát khỏi chết đột ngột do các yếu tố tạm thời (nhồi máu cơ tim cấp, nhịp chậm đã được điều trị bằng máy tạo nhịp vĩnh viễn, tác dụng của thuốc, rối loạn điện giải) nên được phép tiếp tục lái xe sau khi đã hồi phục và sau một giai đoạn theo dõi thích hợp (thường 1 tháng). Các bệnh nhân khác bị tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát chết đột ngột hoặc bằng điêu trị thuốc cần thiết bị chống loạn nhịp hoặc bằng chớp điện, sóng cao tần thì không nên lái xe ít nhất 6 tháng. Sự hạn chế dài hơn sẽ áp dụng cho những bệnh nhân này nếu như rối loạn nhịp tự phát tồn tại. Người thầy thuốc nên tuân theo các qui tắc của địa phương và bàn bạc với các nhà chức trách địa phương trong từng trường hợp riêng biệt.

Bài viết cùng chuyên mục

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.

Bệnh tim và phẫu thuật

Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim

Cấp cứu tăng huyết áp

Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực

Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.

Đau thắt ngực không ổn định

Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Hẹp van động mạch chủ

Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Suy tim: chẩn đoán và điều trị

Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Thông liên nhĩ

Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.

Bệnh cơ tim hạn chế

Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Hẹp eo động mạch chủ

Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.

Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch

Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.

Hở van hai lá

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Viêm màng ngoài tim co thắt

X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.

Các rối loạn nhịp xoang

Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.