Còn ống động mạch

2016-10-25 09:43 AM

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm cơ bản trong chẩn đoán

Người lớn có ống động mạch nhỏ hoặc vừa thường không có triệu chứng ít nhất cho đến tuổi trung niên .

Mạch nảy mạnh, tiếng thứ hai mạnh.

Tiếng thổi liên tục trên vùng ổ van động mạch phổi, thường có rung miu.

Siêu âm Doppler rất hữu ích, nhưng tổn thương có thể nhìn rõ nhất bằng chụp động mạch chủ.

Nhận định chung

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái. Từ thời kỳ phôi thai tới khi sinh, ống động mạch vẫn mở thông do tác dụng của prostaglandin trong tuần hoàn, trong thời kỳ đầu sơ sinh ống động mạch thường đóng kín lại, nếu không tự đóng ta có thể dùng indomethacin tiêm tĩnh mạch (0,2mg/kg tĩnh mạch). Nếu ống động mạch vẫn không thể đóng được, dòng máu sẽ liên tục từ động mạch chủ qua ống động mạch vào động mạch phổi cả trong thì tâm thu lẫn thì tâm trương. Đó là một dạng của dò động - tĩnh mạch, làm tăng sự hoạt động của thất trái. Nếu như nó vẫn còn mở thì những biến đổi gây tắc nghẽn của các tiểu động mạch phổi có thể gây ra tăng áp động mạch phổi. Khi đó shunt có hai chiều hoặc một chiều từ trái sang phải (hội chứng Eisenmenger). Biến chứng này không tương quan với kich thước shunt.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Không có các triệu chứng trừ khi suy thất trái hoặc tăng áp động mạch phổi xuất hiện. Kích thước tim bình thường hoặc hơi to, với mỏm tim đập mạnh. Áp lực mạch rộng và huyết áp tâm trương thấp. Một tiếng thổi liên tục, thô ráp, mạnh lên ở cuối thì tâm thu gần sát tiếng thứ hai, nghe rõ nhất ở khoang liên sườn 1- 2 trái cạnh bờ trái xương ức, thường có rung miu.

Điện tâm đồ và X quang ngực

Điện tim bình thường hoặc dày thất trái, tùy thuộc vào độ lớn của lưu lượng shunt. Trên phim X quang ngực, kích thước và đường nét tim bình thường hoặc có thể thấy thất trái và nhĩ trái to. Động mạch phổi, động mạch chủ và nhĩ trái nhô lên rõ rệt.

Các thăm dò chẩn đoán

Siêu âm xác định kích thước nhĩ trái và tâm thất trái. Độ lớn của shunt cũng có thể được xác định bằng các thăm dò phóng xạ X quang hạt nhân. Thông dò tim xác định sự hiện diện và mức độ nặng của shunt trái - phải và xem có tăng áp lực động mạch phổi hay chưa. Chụp buồng tim có thể xác định cấu trúc giải phẫu của nó.

Tiên luợng và điều trị

Shunt lớn gây ra tỷ lệ tử vong cao do suy tim ngay những năm đầu của cuộc sống. Những shunt nhỏ hơn thường có thể sống tương đối lâu hơn, suy tim ứ trệ là biến chứng thường gặp nhất. Viêm nội tâm mạc vi khuẩn hoặc viêm nội mạc động mạch cũng có thể xảy ra, và cần phải dự phòng bằng kháng sinh. Một số ít bệnh nhân xuất hiện tăng áp lực động mạch phổi và đảo chiều shunt (thành shunt phải - trái), và như vậy chi dưới, đặc biệt là ngón chân xuất hiện tím và hình dùi trống trái ngược với ngón tay hồng hào bình thường, ở giai đoạn này bệnh nhân không thể mổ được.

Phẫu thuật thắt ống động mạch có thể được thực hiện với kết quả tuyệt đối ở những bệnh nhân không có biến chứng. Kinh nghiệm gần đây cho thấy đóng kín ống động mạch bằng cách sử dụng thiết bị "ô dù" qua ống thông đã đạt được kết quả đáng khích lệ, điều đã được chỉ ra rằng ở những nơi có điều kiện thì phương pháp mới này là thủ thuật được lựa chọn để điều trị cho hầu hết các bệnh nhân. Đóng kín được sử dụng cho trẻ em và bệnh nhân người lớn có triệu chứng hoặc có shunt lớn. Bệnh nhân người lớn không có triệu chứng, không có dày thất trái và shunt trái - phải nhỏ thì nguy cơ phát triển tăng áp động mạch phổi hoặc suy tim ứ trệ rất thấp. Nhưng chỉ định để bít kín ống động mạch khi có tăng áp động mạch phổi vẫn còn đang được thảo luận. Ý kiến ủng hộ việc đóng kín bất kỳ khi nào mà lực cản mạch máu phổi thấp và dòng máu qua ống động mạch còn từ trái sang phải.

Bài viết cùng chuyên mục

Block nhĩ thất

Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.

Các rối loạn nhịp xoang

Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Nhồi máu cơ tim cấp

Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Thông liên nhĩ

Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Hẹp động mạch phổi

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.

Tim nhanh kịch phát trên thất

Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Nhịp tự thất gia tốc

Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.

Hở van động mạch chủ

Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.

Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất

Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.

Hội chứng QT dài

Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực

Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.