- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Đau thắt ngực không ổn định
Đau thắt ngực không ổn định
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hầu hết các nhà lâm sàng sử dụng thuật ngữ "đau thắt ngực không ổn định" để biểu thị kiểu đau tăng nhanh và "mạnh lên" ở những trường hợp mà trước đó có đau thắt ngực ổn định nhưng đau xảy ra khi gắng sức nhẹ hoặc khi nghi ngơi, kéo dài hơn và ít đáp ứng với thuốc. Chụp động mạch vành đã chứng tỏ rằng một tỷ lệ cao các bệnh nhân với loại hội chứng này có hẹp động mạch vành "phức tạp" được đặc trưng bằng vỡ hoặc loét mảng xơ vữa, chảy máu hoặc huyết khối. Tinh huống không ổn định này có thể tiến triển tới tắc hoàn toàn và nhồi máu hoặc có thể khỏi với sự tái tạo nội mạc và trở về hình thái đau thắt ngực ổn định, mặc dù thiếu máu có thể khỏi với sự tái tạo nội mạc dù thiếu máu có thể nặng hơn. Đợt đau ngực mới đôi khi được xem là không ổn định nhưng nếu nó xảy ra khi gắng sức và đáp ứng với nghỉ ngơi và dùng thuốc thì nó không có cùng tiên lượng xấu.
Chẩn đoán
Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên và là dấu hiệu xấu hơn. Họ có thể có dấu hiệu của rối loạn chức năng thất trái trong hoặc sau cơn đau.
Điều trị
Các biện pháp chung
Điều trì đau thắt ngực không ổn định nên mạnh mẽ và bao gồm nhiều khía cạnh. Bệnh nhân nên được nằm viện, nghỉ ngơi tại giường hoặc hoạt động rất hạn chế, được theo dõi liên tục và thở oxy. Giảm đau bằng benzodiazepin thường được chỉ định. Huyết áp tâm thu thường được duy trì ở mức từ 100 - 120 mmHg, trừ những bệnh nhân bị tăng huyết áp nặng trước đó. Các bệnh nhân có tần số tim trên 70 - 80 lần/phút nên được dùng chẹn beta giao cảm trừ khi có suy tim hoặc có các chống chỉ định khác.
Điều trị chống đông, chống kết dính liều cầu và tiêu cục máu đông
Như đã đề cập ở trên, huyết khối trong lòng mạch đóng một vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của đau thắt ngực không ổn định và sự tiến triển của nó tới nhồi máu cơ tim. Bởi vậy, điều trị chống huyết khối là một phần quan trọng trong điều trị đau thắt ngực không ổn định. Heparin có thể có hiệu quả hơn aspirin nhưng có thể kết hợp cả hai. Aspirin 325 mg, hàng ngày (liều lượng thấp hơn cũng có thể đủ) nên được sử dụng và heparin tĩnh mạch nên được bắt đầu nếu các triệu chứng vẫn còn tồn tại. Có thể do lòng mạch vẫn còn thông và huyết khối vẫn đang tiếp tục hình thành tự phát hay do điều trị tiêu huyết khối, chống huyết khối có ít hiệu quả trong đau thắt ngực khôrig ổn định.
Nitroglycerin
Các thuốc nhóm nitrat là bước điều trị chống thiếu máu cục bộ đầu tiên trong đau thắt ngực không ổn định. Điều trị bằng các thuốc ngậm dưới lưới, uống hoặc mỡ nitroglycerin thường là đủ. Nếu như đau vẫn tồn tại hoặc tái phát thì nitroglycerin đường tĩnh mạch nên được bắt đầu, liều lượng ban đầu thường là 10 µg/phút. Liều lượng nên được chuẩn độ từ 1 - 2 µg/kg/phút qua 30 - 60 phút và được tăng thêm nếu đau tái phát và dung nạp được thuốc. Liều lượng trên 10 µg/kg/phút hoặc cao hơn có thể được sử dụng, dung nạp được với truyền liên tục nitrat là thường thấy. Cần phải theo dõi cẩn thận và liên tục huyết áp trong khi truyền tĩnh mạch nitroglycerin.
Chẹn giao cảm beta
Các thuốc này có hiệu quả trong đau thắt ngực không ổn định, đặc biệt là khi có nhịp tim nhanh hoặc do các thuốc khác gây ra. Nếu bệnh nhân không có tiền sử hoặc các dấu hiệu thực thể của suy tim, các thuốc này thường có thể được bắt đầu mà không cần đo chức năng thất trái. Những bệnh nhân có dấu hiệu của nhồi máu cũ lớn hoặc nhiều ổ là ngoại lệ. Không nên sử dụng các thuốc có hoạt tính giao cảm nội sinh trong trường hợp này. Mục đích của điều trị trước mắt là giảm tần số tim xuống dưới 60 - 70 làn/phút. Ở hầu hết bệnh nhân chỉ cần thuốc uống là đủ, nhưng điều trị đường tĩnh mạch bằng esmolol (500 µg/kg, tiếp sau đó là 50 - 200 µg /kg/phút) hoặc các thuốc tác dụng kéo dài hơn có thể thích hợp cho những bệnh nhân đang bị đau hoặc có huyết động không ổn định. Điều trị đường uống nên được chuẩn độ mạch mẽ nếu tình trạng huyết áp cho phép.
Các thuốc chẹn dòng calci
Mặc dù các tài liệu về hiệu quả của các thuốc chẹn dòng calci còn ít và kém ưu việt hơn các thuốc chẹn giao cảm beta vì những thay đổi về trương lực vận mạch của mạch vành đóng một vai trò quan trọng trong hội chứng thiếu máu không ổn định, nên các thuốc này thường được sử dụng. Khi đang dùng các thuốc nhóm nitrat và không có phối hợp các thuốc chẹn giao cảm beta, thì diltiazem và các thuốc dihydropyridin khác thường hay gây tim nhanh phản xạ hoặc hạ huyết áp. Nếu bắt đầu bằng liều lượng thấp, và chuẩn độ tăng liều phải được tiến hành nhanh chóng.
Bóng đổi pha trong động mạch chủ (Intra-aortic Balloon Counterpulsation - IABC)
Bóng đổi pha trong động mạch chủ có thể làm giảm cả nhu cầu oxy của cơ tim lẫn tăng lưu lượng dòng máu tới mạch vành thì tâm trương. Phương thức này thường được sử dụng để ổn định bệnh nhân trước khi chụp mạch vành hoặc tái tưới máu, nhưng nói chung chụp mạch vành có thể được thực hiện mà không cần can thiệp này. Hở van động mạch chủ là một chống chỉ định và IABC phải được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có các bệnh mạch máu ngoại vi.
Tiên lượng và các chỉ định tái tưới máu
Trên 90% bệnh nhân có thể hết đau bằng các biện pháp này. Những bệnh nhân không hết thiếu máu sau khi điều trị bằng thuốc nên được chụp mạch vành và tiến hành tái tưới máu sớm. Các thí nghiệm có đối chứng đã không chứng tỏ được bất kỳ ưu việt nào về tỷ lệ sống sót tăng hoặc tỷ lệ nhồi máu thấp hơn của phẫu thuật, ghép cầu nối so với điều trị bằng thuốc, mặc dù nhiều bệnh được điều trị thuốc sẽ cần tái tưới về sau vì các triệu chứng tái phát. Tùy thuộc vào sự chặt chẽ của định nghĩa về đau thắt ngực không ổn định, 10 - 30% bệnh nhân sẽ có nhồi máu cơ tim sớm và tỷ lệ tử vong sau 1 năm là 10 - 20%. Ngay cả khi không có đau ngực, nhiều bệnh nhân sẽ có các đợt đoạn ST "im lặng" chênh xuống hoặc ít gặp hơn là chênh lên trong theo dõi điện tâm đồ liên tục. Những bệnh nhân này có tiên lượng kém hơn.
Bởi vì các đợt.tái phát nên nhồi máu và chết đột ngột có thể xảy ra sau khi đau thắt ngực không ổn định đã giảm nhẹ, cần phải tiến hành đánh giá thêm các bệnh nhân đã được ổn định, bao gồm: (1) Nghiệm pháp gắng sức thể lực hoặc bằng thuốc sớm để phát hiện các đối tượng có mối nguy cơ cao để đánh giá thêm bằng các kỹ thuật không xâm nhập, (2) hoặc chụp mạch vành. Việc lựa chọn phương thức phải tùy thuộc từng cá nhân trên cơ sở tuổi, tình trạng sức khoẻ chung cũng như mức độ nặng của các triệu chứng và dấu hiệu thiếu máu cục bộ. Động mạch chịu trách nhiệm về sự thiếu máu có thể được xác định bằng những thay đổi trên điện tâm đồ hoặc nhấp nháy đồ trong khi đau và tổn thương thường đang được tiến hành nong qua da PTCA. Nếu tái tưới máu không được thực hiện, chăm sóc lâu dài sẽ giống với cách chăm sóc đã được phác thảo trong đau thắt ngực ổn định.
Bài viết cùng chuyên mục
Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất
Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Viêm màng ngoài tim co thắt
X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.
Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất
Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim
Hở van động mạch chủ
Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính
Bệnh tim và thai nghén
Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.
Bệnh cơ tim phì đại
Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.
Hẹp van hai lá
Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.
Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất
Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.
Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý
Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Hẹp van động mạch chủ
Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.
Nhịp tự thất gia tốc
Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis
Còn ống động mạch
Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Viêm màng ngoài tim
Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.
Bệnh cơ tim hạn chế
Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.
Hở van hai lá
Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.
Tạo nhịp tim vĩnh viễn
Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Nhịp nhanh thất và rung thất
Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.
Cơ chế rối loạn nhịp tim
Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.
