- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tim
- Block nhĩ thất
Block nhĩ thất
Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Rối loạn dẫn truyền có thể xảy ra giữa nút xoang và nhĩ, trong nút nhĩ thất và tại các đường dẫn truyền trong thất.
Blốc nhĩ thất được phân loại thành độ I (khoảng PR > 0,21 giây với tất cả các xung động nhĩ được dẫn truyền xuống thất), độ Il (các nhát bị blốc cách hồi) và độ Iil - blốc nhĩ thất hoàn toàn, trong đó không có xung động trên thất nào dẫn truyền được xuống thất.
Blốc nhĩ thất độ II còn được phân thành nhóm nhỏ. Trong blốc nhĩ thất kiểu Mobitz I (Wenckehach) thời gian dẫn truyền nhĩ thất dài dần ra, với khoảng RR ngắn lại, trước khi một nhát bị blốc. Hiện tượng này hầu như do dẫn truyền bất thường trong nút nhĩ thất. Blốc nhĩ thất kiểu Mobitz II là sự blốc đột ngột, không có sự kéo dài thời gian dẫn truyền nhĩ thất đến trước. Nó thường do blốc trong hệ thống bó His. Việc phân loại thành kiểu Mobitz I và Mobitz II chỉ chính xác một phần bởi vì nhiều bệnh nhân có thể có cả 2 kiểu trên điện tâm đồ bề mặt và khi đó không thể dự đoán vị trí của blốc nhĩ thất 2 : 1 từ điện tâm đồ bề mặt. Độ rộng của phức bộ QRS giúp cho việc xác định liệu blốc ở nút hay là ở dưới nút. Khi QRS hẹp, blốc thường ở nút, khi QRS rộng, blốc thường ở dưới nút nhưng quan điểm bó His có thể là cần thiết để định vị một cách chính xác. Điều trị blốc nhĩ thất hoàn toàn trong nhồi máu cơ tim cấp đã được thảo luận. Phần này chỉ giải quyết những bệnh nhân trong bối cảnh không cấp tính.
Blốc độ I và blốc kiểu Mobilz I có thể xảy ra ở người bình thường có trương lực phế vị cao. Chúng cũng có thể xảy ra do tác dụng của thuốc (đặc biệt là digitalis, chện dòng calci, chẹn beta hoặc các thuốc hủy giao cảm khác), thường chồng chéo lên các bệnh cơ sở. Những rối loạn này cũng có thể xảy ra tạm thời hoặc mãn tính do thiếu máu, nhồi máu, các quá trình viêm, xơ hóa, calci hóa hoậc thâm nhiễm gây ra. Tiên lượng thường là tốt vì các ổ chủ nhịp thay thế xuất phát từ phía dưới bộ nối nhĩ thất phía dưới chỗ bị blổc nếu như ở mức độ blốc cao hơn xảy ra.
Blốc kiểu Mobitz II hầu như bao giờ cũng do bệnh thực tổn làm tổn thương hệ thống dẫn truyền dưới nút. Trong trường hợp tiến triển tốt thành blốc nhĩ thất độ III, ổ tạo nhịp thay thế không đáng tin cậy. Chính vì vậy cần phải tạo nhịp thất dự phòng.
Blôc nhĩ thất hoàn toàn (độ III) là một hình thái blốc nặng hơn thường do tổn thương phần dưới của bó His và kết hợp với blốc nhánh hai bên. Phức bộ QRS rộng và tần số thất chậm thường dưới 50 lần/phút) Việc truyền đạt các xung động nhĩ qua nút nhĩ thất bị blốc hoàn toàn và một ổ chủ nhịp ở thất sẽ duy trì tần số thất chậm, đều, thường dưới 45 lần/phút. Gắng sức không làm tăng tần số. Cưòng độ tiếng thứ nhất thay đổi, huyết áp động mạch rộng, và mức huyết áp tâm thu thay đổi và tiếng đập đại bác của tĩnh mạch cổ cũng có thể gặp. Bệnh nhân có thể không có triệu chứng hoặc có thể than phiền mệt mỏi, khó thở, nếu tần số dưới 35 lần/phút. Các triệu chứng có thể xảy ra ở tần số cao hơn nếu như tâm thất không thể tăng cung lượng nhát bóp của nó. Trong giai đoạn chuyển từ blốc từng phần sang blốc hoàn toàn một số bệnh nhân có vô tâm thu thất và có thể kéo dài vài giây tới vài phút. Ngất xảy ra đột ngột.
Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.
Bài viết cùng chuyên mục
Tăng áp động mạch phổi tiên phát
Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.
Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim
Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.
Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc
Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.
Nhịp tự thất gia tốc
Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis
Đánh giá ngất
Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.
Phù phổi cấp
Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.
Cấp cứu tăng huyết áp
Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.
Hẹp động mạch phổi
Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.
Thông liên thất
Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.
Lựa chọn và theo dõi các van tim giả
Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.
Đau thắt ngực
Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.
Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.
Ngoại tâm thu thất
Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.
Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất
Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.
Bệnh cơ tim giãn
Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.
Cơ chế rối loạn nhịp tim
Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.
Điều trị sau nhồi máu cơ tim
Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.
Các biến chứng của nhồi máu cơ tim
Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.
Các rối loạn nhịp xoang
Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.
Triglycerid máu cao
Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.
Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực
Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.
Hội chứng QT dài
Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.
Điều trị tăng Cholesterol LDL
Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.
Tạo nhịp tim vĩnh viễn
Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.
Bệnh tim và phẫu thuật
Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim