Thủ thuật tái tưới máu cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực

2016-10-27 03:34 PM

Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Chỉ định

Chỉ định tái tưới máu động mạch vành ở các bệnh nhân bị đau thắt ngực ổn định còn đang được thảo luận. Có sự thống nhất chúng là nên tái tưới máu cho các nhóm sau: (1) Các bệnh nhân có các triệu chứng không thể chấp nhận được mặc dù điều trị thuốc đã hạn chế bớt các dấu hiệu này; (2) Bệnh nhân có hẹp động mạch vành chính trái trên 50%, có hoặc không có các triệu chứng; (3) Các bệnh nhân có tổn thương ở 3 mạch máu với rối loạn chức năng thất trái (phân số tống máu < 50% hoặc nhồi máu xuyên thành từ trước); (4) Các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định mà sau khi khống chế triệu chứng bằng điều trị thuốc vẫn tiếp tục có thiếu máu cục bộ trên nghiệm pháp gắng sức hoặc theo dõi liên tục; (5) Bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim vẫn tiếp tục có đau ngực hoặc thiếu máu thể hiện trên các thăm dò không xâm nhập, đặc biệt là nếu họ đã được điều trị các thuốc tiêu cục máu đông.

Hơn nữa, nhiều nhà tim mạch thấy rằng các bệnh nhân có triệu chứng không nặng lắm vẫn nên được tái tưới máu nếu như họ có thương tổn nặng nề về mặt giải phẫu (hẹp trên 90%, đặc biệt là phần gần của động mạch xuống trước trái) hoặc có dấu hiệu của thiếu máu cục bộ nặng (nghiệm pháp gắng sức dương tính sớm, ổ khuyết lớn trên nhấp nháy đồ bàng thallium khi gắng sức hoặc các cơn thiếu máu thường xuyên trên theo dõi liên tục điện tâm đồ.

Trong khi những bệnh nhân này có mối nguy cơ cao, một điều chưa biết chắc rằng liệu tiên lượng của họ có tốt hơn sau khi tái tưới máu mạch vành bằng phẫu thuật hoặc nong mạch vành không. Trong một thử nghiệm điều trị thuốc đã cho phép xác nhận các triệu chứng và dấu hiệu khác của thiếu máu được cải thiện.

Các loại thủ thuật

Ghép nối tắt động mạch vành (Coronary Artery Bypass Grafting CABG)

Ghép nổi tắt động mạch vành có thể được thực hiện với tỷ lệ tử vong rất thấp (1-3%) ở các bệnh nhân có chức năng tim còn tốt. Tuy nhiên tỷ lệ tử vong của thủ thuật này tăng lớn tới 4 - 8% hoặc cao hơn trong những năm gần đây bởi vì tỷ lệ các bệnh nhân có mối nguy cơ cao và già hơn đã tăng lên. Ngày càng nhiều những người trẻ hơn có tổn thương một hoặc nhiều mạch máu được nong mạch vành như là thủ thuật tái tưới máu đầu tiên.

Cầu nối là một hoặc cả hai động mạch vú trong (thường là tới động mạch xuống trước trái hoặc các nhánh của nó) đã đem lại kết quả lâu dài rất tốt về sự lưu thông miệng nối và lưu lượng dòng máu đưa tới. Các đoạn tĩnh mạch hiển (hoặc ít tốt hơn là các tính mạch khác) đã được sử dụng để nối giữa động mạch chủ và phần xa của động mạch vành bị tổn thương. Thông thường có từ 1- 5 cầu nối được thực hiện. Sau khi phẫu thuật thành công các triệu chứng nói chung là giảm bớt. Nhu cầu các thuốc chống đau thắt ngực cũng giảm đi và chức năng thất trái tốt lên.

Tỷ lệ tử vong phẫu thuật tăng lên ở những bệnh nhân có chức năng thất trái kém (phân số tống máu thất trái dưới 35%) hoặc những bệnh nhân còn phải có các thủ thuật bổ sung thêm (thay van hoặc cắt túi phình tâm thất). Bệnh nhân trên 70 tuổi, bệnh nhân làm thủ thuật lặp lại hoặc bệnh nhân có các bệnh ngoài tim nặng nề (đặc biệt là suy thận, đái tháo đường, và sức khoẻ toàn thân kém) thì cũng có tỷ lệ tử vong phẫu thuật và tỷ lệ biến chứng cao hơn, khả năng hồi phục đầy đủ chậm hơn. Như vậy CABG nên được dành cho những bệnh nhân có biểu hiện nặng hơn trong nhóm này. Tỷ lệ thông cầu nối sớm (1- 6 tháng) là 85 - 90 % (cao hơn cầu nối động mạch vú trong), và tỷ lệ bít cầu nối sau đó vào khoảng 4% hàng năm. Thất bại sớm của cầu nối thường ở những mạch máu có lưu lượng dòng màu ở phần xa kém, trong khi đó bít kín muộn thường thấy ở những bệnh nhân vẫn tiếp tục hút thuốc và những bệnh nhân tăng lipid máu không được điều trị. Điều trị chống kết dính tiểu cầu bằng Aspirin đã làm cải thiện tỷ lệ thông cầu nối. Điều trị lâu dài bằng dipyridamol rất đắt và bất tiện cũng như có giá trị rất hạn chế. Điều trị mạnh mẽ những rối loạn lipid máu là cần thiết để lượng LDL cholẹsterol < 100 mg/dl và HDL cholesterol > 45 mg/dl. Ghép cầu nối động mạch vành lặp lại hoặc nong mạch vành thường là cần thiết do tổn thương mạch vành tiếp tục nặng lên và bít tắc cầu nối. Phẫu thuật có kỹ thuật tùy thuộc vào phẫu thuật lần đầu.

Nong động mạch vành qua da (Percutaneous Transluminal Coronary Angioplasty - PTCA)

Hẹp động mạch vành có thể làm giãn cơ hiệu quả bằng cách bơm phồng căng một quả bóng dưới áp lực cao. Thủ thuật này được thực hiện trong phòng thông tim với gây tê tại chỗ hoặc là đồng thời với chụp động mạch vành để chẩn đoán hoặc làm sau thủ thuật này. Cơ chế của việc làm giãn chỗ hẹp là làm vỡ các mảnh xơ vữa và sự hấp thụ tiếp sau đó các mảnh vỡ này.

Trước đây thủ thuật này chỉ dành cho những trường hợp tổn thương một mạch máu lớn nhưng hiện nay nó được áp dụng rộng rãi trong bệnh nhiều mạch máu với nhiều tổn thương. Nong động mạch vành qua da cũng có hiệu quả trong hẹp cầu nối động mạch vành. Tổn thương tốt nhất để làm PTCA là đoạn tương đối gần, tổn thương không lệch tâm, không bị phình tách mảng xơ vữa và không ở chỗ xuất phát của các nhánh lớn. Ở Hoa Kỳ số lượng trường hợp được làm PTCA đã vượt xa số phẫu thuật ghép cầu nối. Với hệ thống ống thông được cải tiến, kỹ thuật viên có kinh nghiệm có thể điều khiển ống thông có bóng đi qua tới 90% các tổn thương cần giải quyết và nong thành công 90% số này. Biến chứng sớm chủ yếu là phình tách nội mạc gây ra tắc mạch. Biến chứng này đôi khi có thể điều trị bằng PTCA lặp lại, nhưng phẫu thuật ghép cầu nối cấp là cần thiết ở 3 - 5% số trường hợp và tỷ lệ tử vong và biến chứng là cao, bởi vậy thủ thuật này phải được thực hiện ở phòng thăm dò có phẫu thuật ngoại khoa luôn sẵn sàng.

Ở Hoa Kỳ số thủ thuật PTCA hiện nay được làm nhiều hơn số phẫu thuật ghép cầu nối nhưng sự biện minh cho điều này còn chưa rõ ràng. Một nghiên cứu có đối chứng cho thấy PTCA là ưu việt hơn so với điều trị thuốc để loại bỏ các triệu chứng nhưng không phòng được nhồi máu và chết đột ngột. Nghiên cứu có đối chứng của PTCA so với hoặc điều trị thuốc hoặc phẫu thuật ghép cầu nối trong bệnh nhiều mạch máu hiện vẫn còn chưa có.

Hạn chế chủ yếu của PTCA là hẹp lại, nó xảy ra trong 6 tháng đầu với 30 - 50% các mạch máu được nong. Cơ chế của hẹp lại vẫn còn chữa được rõ và nó có thể được điều trị thành công bằng nong mạch vành qua da lặp lại.

Các thủ thuật tái tưới máu đang nghiên cứu

Có sự quan tâm rất lớn đến việc sử dụng các thiết bị ống thông để lấy đi các mảng xơ vữa "cắt mảng xơ vữa", dây và ống thông laser. Các phương pháp này hiện nay đang trên bước thử nghiệm. Các tài liệu hiện nay chưa cho thấy tỷ lệ thành công ban đầu hoặc tỷ lệ hẹp lại của các thủ thuật thí nghiệm này, nhưng về mặt kỹ thuật thì đang được phát triển vá hòan thiện dần. Lồng dây sắt trong mạch vành đã được sử dụng để làm thông các mạch máu chính ở các bệnh nhân bị bít tắc cấp trong khi nong mạch vành qua da hoặc bệnh nhân bị hẹp lại. Những kết quả nghiên cứu mới đây cho thấy rằng tỷ lệ hẹp lại có thể giảm với luồn dây lần đầu nhưng lại có mối nguy cơ do chống đông mạnh và thời gian nằm viện dài hơn.

Kết quả

Tỷ lê tử vong và nhồi máu trong PTCA và CABG nói chung là tương đương nhau với đau thắt ngực ổn định. Sự hồi phục sau PTCA nhanh hơn rõ rệt, nhưng tỷ lệ thành công trung hạn và dài hạn của CABG lại cao hơn bởi vì PTCA có tỷ lệ hẹp lại cao hơn. Tính phổ cập của PTCA trước hết thể hiện ở giá thành của nó thấp hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn, và cần nhận thức rằng CABG chỉ được làm tốt nhất có 1 lần và nên để dành về sau, cũng như bệnh nhân thích làm các thủ thuật điều trị ít chảy máu hơn. Những lý lẽ này đã làm cho PTCA là thủ thuật được lựa chọn để tái tưới máu cho những trường hợp bệnh một mạch máu, mặc dù không phải bao giờ nó cũng được chỉ định trừ khi các triệu chứng trở nên khó điều trị. Tinh huống khó hơn là bệnh nhiều mạch máu. Một vài nghiên cứu nữa so sánh PTCA và CABG ở những bệnh nhân có 2 hoặc 3 mạch máu bị tổn thương đã được báo cáo. Nói chung tỷ lệ tử vong và tỷ lệ nhồi máu không tử vong không có sự khác biệt nhau. Tuy nhiên các bệnh nhân được làm PTCA thường cần phải tái tưới máu lại nhiều hơn. Giá thành thấp trước mắt của PTCA thường không còn qua 1- 3 năm vì những bệnh nhân này có tỷ lệ can thiệp lại cao hơn. Cũng nên biết rằng kết quả tuyệt vời của những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc làm cho khó có thể chứng minh ưu thế của phương pháp tái tưới máu ngoài trừ ở bệnh nhân vẫn còn triệu chứng hoặc có tổn thương động mạch chính trái hoặc bệnh 3 mạch máu hoặc có rối chức năng thất trái.

Bài viết cùng chuyên mục

Cấp cứu tăng huyết áp

Ngày càng có nhiều các thuốc dùng trong điều trị cấp cứu tăng huyết áp, đã liệt kê các thuốc, liều lượng, và tác dụng phụ.

Bệnh tăng huyết áp

Tăng huyết áp thoáng qua, do sự xúc động hoặc lo sợ gây ra, không nên chẩn đoán là bệnh tăng huyết áp, nhưng có thể chỉ ra một xu hướng tiến triển của nó.

Bệnh tim và thai nghén

Những thay đổi sinh lý do thai nghén gây ra có thể làm cho mất bù tim ở những bệnh nhân có bệnh tim mạch rõ rệt, nhưng những vấn đề nặng nề nhất gặp ở bệnh nhân bị hẹp van tim.

Bệnh tim và phẫu thuật

Đánh giá lâm sàng sẽ cho những chỉ dẫn hữu ích nhất trong việc xác định mối nguy cơ của phẫu thuật ngoài tim

Các khối u tim

Chẩn đoán xác định thường dựa vào siêu âm nhưng cộng hưởng từ hạt nhân và chụp cắt lớp bằng máy vi tính cũng có thể giúp ích.

Bệnh tim do phổi

Triệu chứng nổi bật của chứng tâm phế mạn còn bù là triệu chứng liên quan tới bệnh phổi và gồm ho và gầy, dễ mệt và yếu. Khi bệnh phổi gây ra suy thất phải, các triệu chứng này tăng lên.

Tăng áp động mạch phổi tiên phát

Một số tác giả ủng hộ dùng thuốc chống đông uống lâu dài. Hiệu quả của các thuốc dãn mạch còn đang được thảo luận một phần vì đáp ứng của chúng rất khác nhau.

Viêm màng ngoài tim co thắt

X quang ngực có thể thấy kích thước tim bình thường hoặc tim to. Calci hóa màng ngoài tim cũng thường gặp và nhìn thấy rõ nhất ở tư thế nghiêng.

Tràn dịch màng ngoài tim

Tràn dịch màng tim có thể kết hợp với đau nếu như chúng xảy ra như là một phần của quá trình viêm cấp tính hoặc có thể không có đau và thường gặp ở những trường hợp tràn dịch do ung thư hoặc do tăng ure máu.

Viêm màng ngoài tim

Màng ngoài tim thường bị tổn thương do các quá trình làm tổn thương tim nhưng nó cũng có thể bị tổn thương bởi các bệnh của tổ chức kề bên và có thể là bệnh tiên phát tại piàng ngoài tim.

Thấp tim cấp và bệnh tim do thấp

Các tiêu chuẩn phụ gồm sốt, đau nhiều khớp, kéo dài khoảng PQ có thể trở về bình thường được, tốc độ lắng máu cao, các dấu hiệu của nhiễm liên cầu tan huyết beta trước đó, hoặc tiền sử có thấp tim.

Bệnh cơ tim hạn chế

Sinh thiết cơ tim thường âm tính với viêm màng ngoài tim nhưng không phải như vậy trong bệnh cơ tim hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ có mổ thăm dò mới có thể chẩn đoán được.

Bệnh cơ tim phì đại

Triệu chững thường gặp nhất là khó thở vá đau ngực. Ngất cũng thường gặp và rất điển hình là sau gắng sức là lúc mà đổ đầy tâm trương giảm xuống trong khi sự tắc nghẽn đường ra lại tăng lên.

Bệnh cơ tim giãn

Thường không thể phát hiện được nguyên nhân, nhưng nghiện rượu lâu ngày và viêm cơ tim là những nguyên nhân thường gặp. Hơn nữa, nhiều người coi bệnh cơ tim giãn ngẫu phát thường là giai đoạn cuối của viêm cơ tim.

Viêm cơ tim cấp do thuốc và nhiễm độc

Các phản ứng tăng nhạy cảm với sulfonamid, penicillin và aminosalicylic acid cũng nhừ các thuốc khác có thể gây ra rối loạn chức năng tim. Tia xạ cũng có thể gây phản ứng viêm cơ tim cấp cũng như gây xơ hóa mạn tính, thường gắn liền với viêm màng ngoài tim.

Viêm cơ tim cấp nhiễm trùng

Bệnh nhân có thể có dấu hiệu trong vài ngày đến một vài tuần sau đợt sốt cấp hoặc nhiễm khuẩn đường hồ hấp hoặc có suy tim mà không có triệu chứng trước đó.

Phù phổi cấp

Phù phổi cấp có biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng đặc trưng là khó thở dữ dội, khạc bọt hồng, vã mồ hôi và tím tái. Khám phổi cho thấy ran ở khắp hai phế trường hoặc ran rít và ran phế quản nói chung.

Suy tim: chẩn đoán và điều trị

Khi tim suy, một số thích ứng xảy ra cả ở tim và ở ngoại biên. Nếu như thể tích nháp bóp của thất giảm do giảm co bóp hoặc tăng tiền gánh qụá mức, thể tích và áp lực cuối tâm trương ở những buồng này sẽ tăng lên.

Đánh giá những người thoát khỏi chết đột ngột do tim

Một vấn đề điều trị quan trọng ở những bệnh nhân đã bị ngất, tim nhanh thất có triệu chứng hoặc thoát khỏi chết đột ngột là đưa ra những lời khuyên liên quan tới việc lái xe ôtô.

Đánh giá ngất

Ghi lại các kết quả và theo dõi điện tâm đồ liên tục truyền qua điện thoại có thể giúp cho việc chẩn đoán ở những bệnh nhân có thoáng ngất từng cơn.

Tạo nhịp tim vĩnh viễn

Về mặt quan điểm thì một máy tạo nhịp nhận cảm và tạo nhịp ở cả hai buồng là phương thức sinh lý nhất để tạo nhịp cho những bệnh nhân vẫn còn nhịp xoang.

Phân ly nhĩ thất và rối loạn dẫn truyền trong thất

Tiên lượng của blốc trong thất nói chung là tùy thuộc vào bệnh tim cơ sở. Ngay cả trong blổc hai phân nhanh, tỷ lệ blôc tim hoàn toàn huyền bí hoặc tiến triển tới hình thái blốc này rất thấp và tạo nhịp thường là không xác đáng.

Block nhĩ thất

Những bệnh nhân bị blốc tim hoàn toàn từng cơn hoặc blốc dưới nút hoàn toàn mạn tính cần phải tạo nhịp vĩnh viễn, và tạo nhịp tạm thời được chỉ định nếu tạo nhịp cấy chưa được tiến hành ngay.

Block đường ra xoang nhĩ và hội chứng nút xoang bệnh lý

Blốc xoàng nhĩ thường không có triệu chứng, mặc dù ngừng dài tương đương với ngừng xoang hiếm khi xảy ra như là một phần của hội chứng nút xoang bệnh lý và được điều trị như được phác thảo dưới đây.

Hội chứng QT dài

Hội chủng QT dài mắc phải xảy ra thứ phát do sử dụng các thuốc chống loạn nhịp hoặc các thuốc chống trầm cảm, do rối loạn điện giải thiếu máu cơ tim hoặc nhịp chậm rõ rệt co thể gây ra tim nhanh thất.

Nhịp tự thất gia tốc

Việc điều trị nhịp tự thất gia tốc không đặt ra trừ khi có rối loạn huyết động hoặc rối loạn nhịp nặng hơn. Loại rối loạn nhịp này cũng rất thường gặp trong nhiễm độc digitalis

Nhịp nhanh thất và rung thất

Nhịp nhanh thất là một biến chứng thường gặp của nhồi máu cơ tim cấp nhưng nó có thể xảy ra trong bệnh cơ tim phì đại, sa van hai lá, viêm cơ tim và trong hầu hết các hình thái khác của bệnh cơ tim.

Ngoại tâm thu thất

Theo dõi điện tâm đồ di động hoặc theo dõi trong gắng sức sẽ cho thấy số lượng ngoại tâm thu thất nhiều hơn và các nhát ngoại tâm thu thất phức tạp hơn khi nó xảy ra trên 1 băng điện tâm đồ thường ngày.

Nhịp nhanh trên thất do đường dẫn truyền phụ nhĩ thất

Những bệnh nhân có khoảng RR dưới 220 ms là những người có mối nguy cơ cao nhất. Digoxin và verapamil, các chẹn beta với một mức độ ít hơn có thể làm giảm thời gian trơ của đường dẫn truyền phụ.

Nhịp nhanh nhĩ đa ổ (hỗn loạn) và nhịp bộ nối nhĩ thất

Bộ nối nhĩ nút hoặc nút bó His có thể đảm nhận hoạt động chủ nhịp của tim, thường ở tần số 40 đến 60 lần/phút. Nó có thể xảy ra ở bệnh nhân có viêm cơ tim, bệnh mạch vành và ngộ độc digitalis cũng như những người có tim bình thường.

Rung nhĩ và cuồng động nhĩ

Chống đông bằng warfarin làm giảm biến chứng tắc nghẽn mạch ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi. Aspirin cũng có ích ở những bệnh nhân dưới 75 tuổi.

Tim nhanh kịch phát trên thất

Cơ chế thường gặp nhất của tim nhanh kịch phát và kết thúc bởi một ngoại tâm thu nhĩ hoặc một ngoại tâm thu thất ngẫu nhiên. Vòng vào lại có thể bao hàm cả nút xoang, nút nhĩ thất, hoặc đường dẫn truyền phụ.

Phân biệt ngoại tâm thu trên thất bị dẫn truyền lệch hướng với ngoại tâm thu thất

Mối liên quan của sóng P với phức bộ tim nhanh cũng giúp ích. Một mối tương quan 1 và1 thường có nghĩa là nguồn gốc trển thất, ngoại trừ trong trường hợp tim nhanh thất có sóng P dẫn truyền ngược.

Ngoại tâm thu nhĩ

Những nhát ngoại tâm thu như vậy thường xảy ra ở tim bình thường và không bao giờ là cơ sở đầy đủ cho chẩn đoán bệnh tim. Việc tăng nhanh tần số tim bằng bất kỳ cách nào đều xoá bỏ được ngoại tâm thu.

Các rối loạn nhịp xoang

Ngoại tâm thu nhĩ và thất thường xảy ra thích ứng với nhịp chậm xoang, hiếm khi cần phải tạo nhịp nếu các triệu chứng xuất hiện liên quan với nhịp châm.

Các kỹ thuật đánh giá rối loạn nhịp

Cần phải thật thận trọng trước khi gắn các triệu chứng của bệnh nhân với các rối loạn nhịp hoặc rối loạn dẫn truyền phát hiện thấy trong khi theo dõi liên tục mà không có triệu chứng đồng thời.

Cơ chế rối loạn nhịp tim

Liệu tần số tim chậm có sinh ra triệu chứng lúc nghỉ hoặc khi gắng sức hay không là tùy thuộc vào tình trạng cơ sở của cơ tim và khả năng nó có thể tăng thể tích nhát bóp.

Điều trị sau nhồi máu cơ tim

Những bệnh nhân có đau thắt ngực sau nhồi máu nên được chụp mạch vành. Các tác giả phân biệt các xét nghiệm nên thực hiện thường quy ở các bệnh nhân khác.

Các biến chứng của nhồi máu cơ tim

Hầu hết các bệnh nhân có đau thát ngực sau nhồi máu và tất cả những người trơ với điều trị thuốc thì nên được thông tim sớm và tái tưới máu bằng PTCA hoặc CABG.

Nhồi máu cơ tim cấp

Kích thước và vị trí của ổ nhồi máu quyết định bệnh cảnh lâm sàng cấp, các biến chứng sớm và tiên lượng lâu dài. Các dấu hiệu huyết động có liên quan trực tiếp tới mức độ lan rộng của những lần nhồi máu trước.

Đau thắt ngực không ổn định

Hầu hết các bệnh nhân bị đau thắt ngực không ổn định sẽ có những thay đổi điện tâm đồ trong cơn đau, thường thấy sự chênh xuống của đoạn ST hoặc sóng T dẹt hoặc đảo ngược nhưng đôi khi ST lại chênh lên.

Đau thắt ngực

Đau thắt ngực thường do bệnh xơ vữa các động mạch vành gây ra. Co thắt động mạch vành cũng có thể xẩy ra ở vị trí tổn thương hoặc hiếm hơn, ở những động mạch hoàn toàn bình thường.

Bệnh mạch vành: bệnh xơ cứng động mạch vành, bệnh tim thiếu máu cục bộ

Các quá trinh này tiến triển chậm qua nhiều thập kỷ trong hầu hết các trường hợp. Trái lại, lịch sử tự nhiên của mảng xơ vữa chín khó có thể dự đoán được.

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Những vi khuẩn độc hơn, đặc biệt là tụ cầu vàng, có khuynh hướng gây ra nhiễm khuẩn tiến triển và hủy hoại nhanh hơn. Bệnh nhân thường có biểu hiện bằng sốt cấp tính

Lựa chọn và theo dõi các van tim giả

Việc nhận biết rối loạn chức năng van có thể rất khó khăn nhưng siêu âm Doppler đặc biệt là qua đường thực quản có thể phát hiện thấy hẹp trong hầu hết các trường hợp.

Hẹp hở van ba lá

Hở van ba lá thứ phát do bệnh van hai lá nặng, hoặc các tổn thương tim trái khác, có thể thoái lui khi bệnh cơ sở được điều trị

Hở van động mạch chủ

Hở van động mạch chủ đã trở nên ít gặp hơn từ thời đại kháng sinh, nhưng các nguyên nhân không do thấp lại thường gặp hơn, và là nguyên nhân chủ yếu gây hở van động mạch chủ đơn độc.

Hẹp van động mạch chủ

Hẹp van động mạch chủ có thể xảy ra sau thấp tim nhưng nguyên nhân thường gặp là do sự calci hóa van dần dần chồng chéo lên bệnh van động mạch chủ hai lá bẩm sinh hoặc ở người già có van bình thường trước đó.

Hở van hai lá

Hở van hai lá có thể do nhiều quá trình gây ra. Bệnh thấp kết hợp với van dày và giảm di động của lá van và thường có bệnh cảnh hỗn hợp của hẹp và hở.

Hẹp van hai lá

Hầu hết tất cả các bệnh nhân hẹp van hai lá đều có bệnh tim từ trước là bệnh thấp tim mặc dù tiền sử thấp tim thường không rõ ràng.

Thông liên thất

Trong tổn thương này, có một lỗ thông ở phần trên của vách liên thất do không hợp nhất được với thành động mạch chủ nên máu đi từ tâm thất trái có áp lực cao sang thất phải có áp lực thấp.

Còn ống động mạch

Ống động mạch từ thời kỳ bào thai không thể đóng lại được và vẫn tồn tại một shunt nối động mạch phổi trái với động mạch chủ, thường ở gần chỗ xuất phát của động mạch dưới đòn trái.

Thông liên nhĩ

Những bệnh nhân với shunt nhỏ có thể có cuộc sống bình thường, các shunt lớn sẽ gây ra biến chứng ở tuổi bốn mươi. Tăng sức cản mạch máu phổi thứ phát dẫn tới tăng huyết áp động mạch phổi hiếm khi xảy ra ở trẻ em.

Hẹp eo động mạch chủ

Huyết áp sẽ tăng ở động mạch chủ và các nhánh của nó ở phần trước chỗ hẹp còn huyết áp lại giảm ở phần sau chỗ hẹp. Tuần hoàn bàng hệ phát triển qua các động mạch liên sườn và các nhánh của động mạch dưới đòn.

Hẹp động mạch phổi

Bệnh nhân bị hẹp động mạch phổi nhẹ có thể có tuổi thọ bình thường. Hẹp nặng thường gắn liền với chết đột ngột và có thể gậy ra suy tim vào những năm 20 đến 30 tuổi.

Các xét nghiệm và thủ thuật chẩn đoán bệnh tim mạch

Các thủ thuật chẩn đoán không chảy máu đã ngày càng tăng về số lượng và ứng dụng trong chẩn đoán. Tuy nhiên chúng thường bị lạm dụng quá mức.

Các triệu chứng và dấu hiệu bệnh tim

Việc nhận thấy nhịp đập của tim, có thể là hiện tượng bình thường, hoặc có thể phàn ánh tăng cung lượng tim, hoặc tăng cung lượng nhát bóp tim.

Triglycerid máu cao

Điều trị cơ bản với chứng tăng triglycerid là chế độ ăn, tránh dùng rượu và thức ăn béo, hạn chế calo. Sự kiểm soát các nguyên nhân thứ phát gây tăng nồng độ triglycerid cũng có thể hữu ích.

Điều trị tăng Cholesterol LDL

Các chế độ ăn làm giảm cholesterol, cũng có thể có ảnh hưởng biến thiên trên các phân đoạn lipid, vi dụ, các chế độ ăn có chất béo toàn phần rất thấp.

Lipid máu và các bất thường về lipid

Hai loại lipid chính trong máu là cholesterol và triglycerid, chúng được mang trong các phân tử lipoprotein, và các túi hình cầu cũng chứa cả các protein