Chứng khó tiêu
Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chứng khó tiêu là một từ không chính xác để chỉ một nhóm các triệu chứng ở bụng trên hoặc thượng vị như là đau, đầy bụng, buồn nôn, ợ hơi, no sớm, ợ nóng, ợ thức ăn hoặc đơn giản là "kém tiêu hóa". Các triệu chứng khó tiêu xuất hiện trong một phần tư số dân người lớn. Trong thực hành y học, chứng khó tiêu là một trong các điều phàn nàn mà cả bác sĩ đa khoa và bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa đánh giá. Tuy nhiên phần lớn nhân dân không tìm đều sự quàn tâm y học.
Bệnh nguyên
Chứng khó tiêu có thể nảy sinh từ nhiều bệnh, trong đó những bệnh thông thường nhất là:
Rối loạn chức năng đường tiêu hóa (bên trong)
Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản, bệnh loét tiêu hóa, ung thư dạ dày, liệt nhẹ dại dày, ký sinh vật (Giardia, giun lươn), không dung nạp lactose (Chú thích: bệnh viêm dạ dày liên quan với Helicobacter pylori đã không được xác nhận là nguyên nhân của chứng khó tiêu mạn tính).
Các thuốc
Bao gồm rượu, cafein, sắt, các thuốc chống viêm không steroid, các kháng sinh (erythromycin, metronidazol), theophyllin và digoxin.
Bệnh tụy
Ung thư biểu mô tụy, viêm tụy mạn tính.
Bệnh đường mật
Sỏi mật quản, sỏi ống mật chủ, rối loạn chức năng cơ thắt Oddi.
Các bệnh khác
Bao gồm thai nghén, đái tháo đường, ung thư trong khoang bụng, thiếu máu cục bộ động mạch vành, bệnh tuyến giáp trạng.
Chứng khó tiêu do nhiều nhân tố
Trong nửa số bệnh nhân bị chứng khó tiêu, các triệu chứng không giải thích được bằng nội soi hoặc âm thanh đồ. Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.
Các triệu chứng và dấu hiệu
Do bản chất không đặc trưng các triệu chứng khó tiêu, tiền sử lâm sàng chỉ có ích lợi chẩn đoán hạn chế. Cần phải hỏi đầy đủ về chế độ ăn và thuốc men (bao gồm chứng không tiêu lactose). Phải hỏi bệnh nhân về tính chất và vị trí đau, mô hình lan rộng của đau, đau là liên tục hay ngắt đoạn, và các nhân tố làm giảm đau. Ợ nóng và ợ ra thức ăn xẩy ra nổi bật là đặc điểm rõ rệt của bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Thượng vị là địa điểm thông thường nhất bị đau trong chứng khó tiêu do các nguyên nhân khác, trong đó có bệnh đường mật. Bệnh loét tiêu hóa là chẩn đoán chắc chắn hơn khi có những cơn đau thượng vị rát theo chu kỳ xẩy ra giữa các bữa ăn hoặc ban đêm và được làm giảm đi bằng thuốc kháng acid hoặc thức ăn; song ít nhất là nửa số các bệnh nhân loét tiêu hóa không nêu ra bệnh sử điển hình này. Đau thượng vị hoặc phần tư trên bên phải bụng không đều đặn, gián đoạn do bữa ăn gây nên và có mô hình tăng dần lại giảm nhẹ dần gợi ý về bệnh đường ruột. Đau thượng vị liên tục, không rõ ràng liên kết với sụt cân, gợi ý về bệnh tụy. Cuối cùng, chứng khó tiêu không do loét có khả năng xẩy ra nhiều hơn ở các bệnh nhân trẻ với đau thượng vị mạn tính, không rõ liên quan với một loạt các than phiền khác như là đầy hơi và chướng căng bụng.
Việc thăm khám thực thể toàn bộ bao gồm cả thử phân tìm máu kín đáo là bắt buộc. Các dấu hiệu của bệnh thực thể như là sụt cân, to cơ quan, khối ở bụng và có máu kín đáo trong phân đòi hỏi phải điều tra thêm. Công việc xét nghiệm sơ bộ đầu tiên bao gồm công thức đếm máu toàn bộ và một danh mục kiểm tra sinh hóa học và kiểm tra hóa học về gan.
Các thăm khám đặc biệt
Vì bệnh sử và thăm khám thực thể là không đặc trưng nên việc chẩn đoán chứng khó tiêu trong phần lớn các trường hợp đòi hỏi các thăm khám đặc biệt. Nội soi ở phần trên rất chính xác trong chẩn đoán bệnh loét tiêu hóa, bệnh ngược dạ dày - thực quản ăn mòn, và ung thư dạy dày. Tuy nhiên, ít nhất một nửa số bệnh nhân với chứng khó tiêu có các phát hiện nội soi bình thường hoặc không đặc trưng. Tuy rằng chụp một loạt đường dạ dày - ruột có cản quang barit là kém chính xác, nhưng nó đỡ tốn kém hơn nội soi và cũng là một phương thức kiểm tra hợp lý. Chụp siêu âm bụng cùng được làm từ đầu khi nghi ngờ bệnh đường mật hoặc tụy. Chụp nội soi cắt lớp vi tính hoặc hình ảnh cộng hưởng từ cần thiết chỉ khi nào có nghi ngờ nhiều về các bệnh trong khoang hoặc điều tra các phát hiện bất thường bằng chụp siêu âm.
Quyết định lúc nào và phương pháp nào để điều tra bệnh nhân bị chứng khó tiêu có thể phụ thuộc vào một số nhân tố. Ở những bệnh nhân dưới 45 tuổi với các thăm khám thực thể và labo bình thưồng (ở những người này nguy cơ ung thư thấp), việc thử điều trị triệu chứng theo kinh nghiệm bằng thuối kháng H2 thường là hợp lý. Các bệnh nhân không có đáp ứng hoặc có sự tái phát các triệu chứng là lý do xác đáng về nghiên cứu nội soi hoặc X quang. Ở các bệnh nhân trên 45 tuổi với sự khởi đầu mới về chứng khó tiêu, với các bất thường thực thể hoặc labo, hoặc các bệnh nhân từ các vùng thường có bệnh ung thư dại dày thì cần phải thực hiện chấn đoán nội soi.
Điều trị chứng khó tiêu không do loét mạn tính
Điều trị hướng về nguyên nhân cơ bản của chứng khó tiêu, ở các bệnh nhân với chứng khó tiêu không do loét, cần xem xét những biện pháp sau:
Động viên yên tâm
Bệnh nhân cần được làm yên tâm rằng bệnh của họ không nặng nhưng có thể lâu dài. Phải chuyển sự chú trọng từ tìm tòi nguyên nhân sáng tìm các cách thức ứng phó với các triệu chứng. Mối tương tác thầy thuốc - bệnh nhân tiếp tục có thể là khía cạnh quan trọng nhất của biện pháp.
Liệu pháp dinh dưỡng
Việc uống quá nhiều rượu và cà phê phải được cắt giảm. Phải loại bỏ các thuốc có khá năng gây khó chịu. Phải thử dùng chế độ ăn không có lactose. Một nhật ký thực phẩm trong đó các bệnh nhân ghi các thức ăn của họ trong ngày, các triệu chứng và các việc xẩy ra trong ngày có thể bộc lộ các nhân tố thúc đẩy về ăn uống và xã hội gây đau.
Liệu pháp chống bài tiết
Các thuốc đối kháng H2 (Ranitidin 150mg 2 lần mỗi ngày; cimetidin 400mg 2 lần mỗi ngày) có thể làm giảm các triệu chứng ở một số bệnh nhân. Song trên 50% số bệnh nhân được giảm nhẹ từ liệu pháp placebo.
Các tác nhân làm tăng vận động
Cisaprid 10mg 3 lần mỗi ngày và metoclopramid 10mg 4 lần mỗi ngày, làm tăng việc chuyển hết dung lượng dạ dày, và cả hai tỏ ra có hiệu lực chữa triệu chứng trong khó tiêu không do loét.
Bài viết cùng chuyên mục
Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng
Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ
Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.
Bệnh trĩ
Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này
Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn
Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Giãn phình mạch đường ruột
Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.
Bệnh Crohn
Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.
Các loại viêm dạ dày đặc trưng
Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.
Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản
Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.
Giãn tĩnh mạch thực quản
Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.
Bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.
Co thắt thực quản lan tỏa
Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.
Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập
Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.
Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản
Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)
Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.
Lao ruột: viêm ruột do lao
Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.
Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh
Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.
Các khối u dạ dày
Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
