- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh đường tiêu hóa
- Các u của ruột non
Các u của ruột non
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các u lành và ác tính của ruột non là hiếm thấy. Có thể không có triệu chứng hoặc dấu hiệu nhưng có thể xẩy ra xuất huyết hoặc tắc (hoặc cả hai). Tắc thường do hoặc là lồng ruột với khối u ở đầu khối lồng hoặc là sự bít kín một phần hoặc hoàn toàn lòng ruột do sự tăng trưởng của khối u. Xuất huyết có thể gây ra yếu, mệt mỏi tăng, hơi chóng mặt, ngất, xanh tái, vã mồ hôi, nhịp tim nhanh, và phân hắc ín. Tác gây buồn nôn, nôn, và đau bụng. Bụng đau tăng khi sờ chạm, căng trướng, các tiếng ruột với thanh âm cao và rõ. Các tổn thương ác tính làm sụt cân và có những biểu hiện ngoài ruột (như đau do bao gan bị dãn căng, cơn đỏ bừng do ung thư biểu mô). Trong trường hợp ung thư biểu mô tá tràng có thể có hội chứng loét tiêu hóa. Hiếm khi sờ được khối u.
Nếu có xuất huyết, đại tiện phân máu đen và thiếu máu nhược sắc xẩy ra. X quang (loạt chụp ruột non, tốt nhất là có thụt rửa ruột) có thể cho thấy khối u và ruột non giãn to nếu có tác ruột. Khi không tắc ruột, việc xác minh khối u cực kỳ khó khăn.
Các u lành tính
Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.
U tuyến lành chiếm 25% toàn bộ các u lành của ruột.
U mỡ thường xảy ra nhất ở hồi tràng; triệu chứng bộc lộ thường là tắc ruột do lồng ruột, u cơ trơn thường liên quan với xuất huyết và cũng gây lồng ruột, u mạch có tác động như các u nhỏ ở ruột khác nhưng có xu hướng xuất huyết nhiều hơn.
Bệnh đa polip ruột của đường dạ dày - ruột (bất kỳ ở mức nào) liên quan với nhiễm sắc tố da - niêm mạc (hội chứng Peutz - Jeghers) là một bệnh nhẹ. Đã có báo cáo về biến đổi ác tính nhưng hiếm và sự tồn tại của chúng chỉ trở thành một vấn đề với các biến chứng như là tắc và xuất huyết. Các polip là các u loạn sản phôi còn sắc tố là melanin. Sắc tố bộc lộ rõ rệt nhất ở trên môi và niêm mạc miệng.
Các u ác tính
Việc điều trị các u ác tính và các biến chứng của chúng thường là phẫu thuật.
Ung thư tuyến là ung thư thường gặp nhất của ruột non, xẩy ra nhiều nhất ở tá tràng và hỗng tràng. Các triệu chứng là do tắc hoặc xuất huyết. Tiên lượng xấu.
U lympho. Cũng biểu lộ lần đầu bằng tắc hoặc xuất huyết. Thủng ruột hoặc kém hấp thu cũng có thể xẩy ra. Chiếu xạ sau mổ đôi khi cũng có giá trị.
Sarcoma hay xẩy ra nhất ở giữa ruột non, và có thể biểu hiện lần đầu là khối u, tắc và xuất huyết. Tiên lượng dè dặt.
Các u carcinoid phát sinh từ các tế bào ưa bạc của đường dạ dày - ruột. 90% các u này xẩy ra ở ruột thừa, và 75% của phần còn lại xẩy ra ở ruột non (thường ở hồi tràng phía xa). Các u dạng ung thư có thể phát sinh ở các vị trí khác kể cả ở dạ dày, ruột kết, phế quản, tụy và buồng trứng. Phần lớn các u dạng ung thư ở ruột non không gây ra hội chứng dạng ung thư. Vấn đề chủ yếu là các di căn. Nói chung, hội chứng dạng ung thư chỉ xẩy ra với các u ác tính đã có di căn. U có thể tiết ra serotonin và bradykinin. Các biểu hiện toàn thân có thể gồm (1) cơn đỏ mặt bột phát và những triệu chứng vận mạch khác, (2) khó thở và thở khò khè, các đợt tái phát đau bụng và tiêu chảy, và (4) các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh van tim bêh phải. Chẩn đoán được xác nhận bằng tìm ra các mức độ cao của hydroxy - indoleacetic acid (một sản phẩm chuyển hóa của sercttonin) trong nước tiểu, u nguyên phát thường nhỏ và sự tắc ruột là không thường xẩy ra. Các di căn thường nhiều nhưng lành tính một cách đáng ngạc nhiên. Điều trị theo triệu chứng và hỗ trợ; có thể cần phải cắt bỏ u nếu bệnh được nhận ra trước khi có lan rộng các di căn. Đáp ứng với điều trị bằng các thuốc đối kháng serotonin tỏ ra không đều đặn.
Dùng nhiều lần nhác lại corticotropin hoặc các corticosteroid đôi khi có thể có giá trị. Tiên lượng chữa khỏi bệnh là xấu nhưng sống thêm dài hạn là không hiếm gặp.
Bài viết cùng chuyên mục
Hội chứng Zollinger Ellison
Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.
Nấc
Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.
Buồn nôn và nôn
Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.
Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn
Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.
Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt
Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.
Viêm thực quản nhiễm khuẩn
Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.
Tiêu chảy mạn tính
Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).
Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn
Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất
Đánh giá các rối loạn thực quản
Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.
Chảy máu túi thừa ruột kết
Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.
Viêm túi thừa Meckel
Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.
Tắc đường ra của dạ dày
Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.
Sốt địa trung hải gia đình
Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.
Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình
Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.
Xuất huyết dạ dày tá tràng
Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.
Bệnh viêm ruột
Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.
Viêm ruột thừa
Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.
Bệnh trĩ
Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này
Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát
Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.
Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng
Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ
Viêm túi thừa ruột kết
Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.
Viêm màng bụng cấp
Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.
Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết
Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.
Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo
Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.
Tiêu chảy cấp tính
Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.
