Buồn nôn và nôn

2016-11-18 07:05 PM

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Buôn nôn là một cảm giáp mơ hồ, rất khó chịu về sắp sửa nôn hoặc nôn nao, tiếp theo đó có thể là nôn hoặc không nôn. Nôn là việc đẩy ra mạnh mẽ các chất chứa trong dại dày ra ngoài qua cơ thắt thực quản trên giãn rộng và miệng mở, gây ra do các co bóp phối hợp của dại dày, bụng và lồng ngực. Nó thường theo sau buồn nôn và nôn khan, các cử động co thắt hô hấp và bụng từng cơn ("các gắng sức khô"). Phải phân biệt nôn với ợ thức ăn, đó là dòng trào ngược không cố gắng của dung lượng lỏng hoặc thức ăn từ dạ dày.

Động tác nôn được kiểm soát do một trung tâm ở hành tủy phối hợp các trung tâm hô hấp, vận mạch và phân phối thần kinh của đường dại dày - ruột. Trung tâm nôn có thể được kích thích do 4 nguồn khác nhau của đầu vào:

(1) Các sợi thần kinh phế vị đi vào (giầu các thụ thể serotonin 5-HT3) và các sợi thần kinh tạng từ các nội tạng đường dạ dày - ruột; các sợi này có thể được kích thích do sự căng giãn đường ruột hoặc dạ dày - ruột, sự kích ứng hoặc các nhiễm khuẩn niêm mạc hoặc màng bụng.

(2) Hệ tiền đình có thể bị kích thích do vận động hoặc các nhiễm khuẩn. Các sợi này có nồng độ cao các thụ thể histamin H1, và muscarin tiết cholin.

(3) Các trung tâm cao hơn của hệ thần kinh trung ương. Các rối loạn hệ thần kinh trung ương hoặc một số nhận thức thị giác, mùi, cảm xúc có thể gây nôn. Ví dụ, bệnh nhân nhận liệu pháp hóa học có thể bị nôn trước khi điều trị.

(4) Vùng khởi động thụ thể hóa học nằm ở bên ngoài hàng rào máu - não trong khu vực sau rễ của hành tủy. Vùng này có các thụ thể hóa học có thể được kích thích bằng các thuốc, các tác nhân hóa trị liệu, các độc tố, giảm oxy mô, tăng urê huyết, nhiễm toan và liệu pháp chiếu xạ. Vùng này có nhiều thụ thể serotonin 5-HT3 và dopamin D2.

Các biến chứng của nôn bao gồm mất nước, giảm kali huyết, nhiễm kiềm chuyển hóa, hít phải vào phổi, vỡ thực quản (hội chứng Boerhaave) và xuất huyết thứ phát do rách chỗ nối dại dày - thực quản (hội chứng Mallory - Weiss)

Các triệu chứng và dấu hiệu

Bệnh sử và thăm khám thực thể là quan trọng trong việc phân biệt các nguyên nhân gây nôn. Các triệu chứng không có đau bụng là điển hình do nguyên nhân ngộ độc thức ăn, viêm dạ dày - ruột nhiễm khuẩn và do thuốc, phải tìm hiểu những thay đổi mới đây trong thuốc men, thức ăn, các triệu chứng khác do virus gây khó chịu, hoặc tiêu chảy hoặc các chứng bệnh khác trong những người ở gia đình. Sự khởi đầu cấp tính của đau bụng nhiều và nôn gợi ý sự kích ứng của màng bụng, tắc ruột cấp tính, bệnh đường dẫn mật - tụy. Thăm khám có thể phát hiện sốt, tăng cảm giác đau tại chỗ, phản ứng tự vệ hoặc cảm giác đau này lại sau khi sờ. Nếu kéo dài hơn gợi ý thai nghén, tắc đường ra của dại dày, liệt nhẹ dạ dày, rối loạn di động ruột, rối loạn do tâm lý và các rối loạn hệ thần kinh trung ương hoặc toàn thân. Nôn ngay sau ăn gợi ý là do chứng cuồng ăn vô độ hoặc căn nguyên tâm thần. Nôn thức ăn không tiêu sau các bữa ăn 1 đến 4 - 5 giờ gợi ý là liệt nhẹ dạ dày hoặc tắc đường ra của dạ dày. Thăm khám lâm sàng ở các bệnh nhân này có thể phát hiện tiếng óc ách khi lay lắc bụng. Bệnh nhân dù có các triệu chứng cấp tính hay mạn tính đều được hỏi về các triệu chứng thần kinh như là đau đầu, cổ cứng, chóng mặt và dị cảm hoặc yếu mệt. Các thăm khám thần kinh và soi đáy dạ dày là cần thiết.

Các thăm khám đặc biệt

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to. Ở các bệnh nhân nghi bị tắc cơ học ở dạ dày hoặc ruột non, phải đặt một ống mũi dại dày để làm giảm các triệu chứng. Việc hút ra trên 200ml chất còn sót lại ở một bệnh nhân nhịn ăn làm nghĩ đến tắc hoặc liệt nhẹ dạ dày. Điều này được xác nhận bằng test tải nước muối cho thấy là hút ra được chất còn lại trong dạ dày hơn 400 ml sau khi đã truyền qua ống mũi - dại dày 750ml nước muối đẳng trương được 30 phút. Nguyên nhân tắc đường ra của dạ dày được xác minh tốt nhất bằng nội soi từ phần trên. Liệt dạ dày nhẹ được xác nhận bằng nghiên cứu ghi nhấp nháy hạt nhân, cho thấy việc vận chuyển hết dung lượng dạ dày bị trì hoãn còn nội soi từ trên hoặc loạt chụp có cản quang barit đường dạ dày - ruột trên đều không cho thấy chứng cớ về tắc cơ học ở đường ra của dạ dày. Các test chức năng gan bất thường hoặc tăng amylase làm nghĩ đến bệnh đường mật - tụy; bệnh này có thể điều tra bằng âm ký hoặc chụp cắt lớp vi tính vùng bụng. Các triệu chứng hệ thần kinh trung ương phải được điều tra bằng chụp cắt lớp vi tính hoặc hình ảnh cộng hưởng từ vùng não.

Bảng. Các nguyên nhân gây buồn nôn và nôn

(1) Kích thích đi vào nội tạng

Tắc cơ học dạ dày - ruột

Tắc đường ra của dạ dày: bệnh loét tiêu hóa, ung thư.

Tắc ruột non: Các dính ruột, thoát vị, xoắn ruột, bệnh Crohn, ung thư biểu mô.

Rối loạn di động da dầy - ruột

Liệt dạ dày nhẹ: đái tháo dường, dùng thuốc, sau nhiễm virus, sau mổ cắt dây phế vi.

Ruột non: bệnh xơ cứng bì, thoái hóa dạng tinh bột, giả tắc ruột mạn tính, bệnh cơ - thần kinh gia đình.

Kích ứng màng bụng

Viêm màng bụng: nội tạng bị thủng, viêm ruột thừa, viêm màng bụng do vi khuẩn tự phát.

Các nhiễm khuẩn

Viêm dạ dày - ruột do virus: tác nhân Norvvalk, rotavirus.

Ngộ dộc thực phẩm: các độc tố từ B cereus, S. aureus, C. Pertringens.

Viêm gan A hoặc B.

Các nhiễm khuẩn toàn thân cấp tính.

Các rối loạn gan - mật hoặc tụy.

Viêm tụy cấp tính.

Viêm túi mật hoặc sỏi ống mật chủ.

Các chất kích thích da dày ruột tại chỗ

Rượu, các thuốc chống viêm không steroid, các kháng sinh đường uống.

Các kích thích khác

Bệnh tim: nhồi máu cơ tim cấp tính, suy tim xung huyết.

Bệnh tiết niệu: sỏi, viêm bể thận.

(2) Các rối loạn hệ thần kinh trung ương

Các rối loạn tiền đình

Viêm mê đạo, hội chứng Ménière, chóng mặt khi vận động.

Tăng áp lực nội sọ

Các u ở hệ thần kinh trung ương, xuất huyết dưới màng cứng hoặc dưới màng nhện.

Các nhiễm khuẩn

Viêm màng não, viêm não.

Do căn nguyên tâm thần

Nôn mừa do dự đoán (một vấn đề khó chịu).

Cuồng ăn vô độ.

Các rối loạn tâm thần.

(3) Kích thích vùng khởi phát thụ thể hóa học

Hóa liệu pháp

Cisplatin, mechlorethamin, cyclophosphamid, doxorubincin.

Các thuốc

Digoxin, theophyllin, các thuốc dạng thuốc phiện.

Liệu pháp chiếu xạ.

Các rối loan toàn thân

Nhiễm xetôn acid trong đái tháo đường, cường năng tuyến giáp, tăng urê - máu cơn kịch phát vỏ thượng thận.

Điều trị

Các biện pháp chung

Điều trị nôn phải hướng chủ yếu vào việc tìm ra và chữa nguyên nhân căn bản. Phần lớn các nguyên nhân nôn cấp tính là nhẹ, có hạn định và không đòi hỏi điều trị đặc biệt. Các bệnh nhân phải ăn các chất lỏng loãng (nước xúp thịt, cá, rau, chè, các đồ uống có carbonat) và những lượng nhỏ thực phẩm khô (bánh quy có hợp chất natri). Đối với nôn cấp tính nặng hơn, thường cần cho bệnh nhân nằm viện. Do không thể ăn và mất các chất lỏng ở dạ dày, bệnh nhân có thể bị mất nước và mất các chất lỏng dạ dày, bệnh nhân có thể bị mất nước và giảm kali huyết, nhiễm kiềm chuyển hóa. Trong phần lớn các trường hợp, dung dịch muối 0,45% với 20 meq/L kali được truyền tĩnh mạch để giữ ổn định mức đủ nước của cơ thể. Một ống hút mũi - dạ dày để làm giảm sức ép ở dạ dày cải thiện làm dễ chịu cho bệnh nhân và cho phép theo dõi kiểm tra sự mất chất lỏng.

Các thuốc chống nôn

Có thể cho thuốc để dự phòng hoặc để chống nôn. Căn cứ vào tính phức tạp của các cách khác nhau kiểm soát và kích thích nôn, không có gì làm ngạc nhiên là không có một thuốc duy nhất nào có hiệu quả cho tất cả bệnh nhân. Việc kết hợp các thuốc từ nhiều loại khác nhau có thể làm mất các triệu chứng với độc tính ít hơn ở một số bệnh nhận. Tất cả các loại thuốc này đều phải tránh dùng trong thời kỳ có thai.

(1) Các thuốc độc kháng thụ thể serotorin 5-HT3 Ondansetron là loại hiện có duy nhất của họ thuốc mới nhất của các thuốc chống nôn. Khi được đưa vào dùng trước khi điều trị, nó có các hiệu quả dự phòng nôn do hóa liệu pháp gây ra.

(2) Các thuốc đối kháng dopamin. Các phenothiazin, butyrophenon và các benzamid thay thế có các đặc tính chống nôn nhờ vào ít nhất một phần các tác dụng chặn tiết dopamin cũng như an thần. Không may là liều cao của các tác nhân này liên quan với các tác dụng phụ kháng tiết dopamin, bao gồm cả phản ứng ngoại tháp và trầm câm. Các tác nhân này thường được dùng làm thuốc chống nôn trong nhiều tình huống.

(3) Các thuốc kháng hisiamin. Các thuốc này có các tính chất chống nôn yếu nhưng có ích lợi dự phòng nôn do chóng mặt khi vận động.

(4) Các thuốc an thần. Các benzodiazepin có thể giúp ích cho các bệnh nhân nôn do căn nguyên tâm thần hoặc do quen thói.

(5) Các corticosteroid. Các corticosteroid có thể được dụng kết hợp với các tác nhân khác trong điều trị nôn do hóa liệu pháp gây nên. 

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Viêm ruột thừa

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.