Viêm ruột thừa

2016-11-24 08:29 PM

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán

Khó chịu lúc đầu ở quanh rốn, tiếp theo là đau bụng ở góc phần từ dưới bên phải bụng và tăng cảm giác đau khi sờ chạm vào với các dấu hiệu kích thích màng bụng.

Chán ăn, buồn nôn và nôn, và táo bón.

Sốt nhẹ và tăng bạch cầu đa nhân nhẹ.

Các nhận định chung

Viêm ruột thừa gây ra do tắc ống ruột thừa bởi một sỏi phân, viêm, dị vật hoặc khối u ác tính. Tiếp theo tắc là nhiễm khuẩn, phù và thường xuyên là nhồi máu vách ruột thừa. Áp lực trong lòng ruột phát triển nhanh, có xu hướng gây ra hoại tử vách sớm và thủng. Các lứa tuổi và hai giới đều mắc bệnh, nhưng viêm ruột thừa thường gặp hơn ở nam giới ở độ tuổi 10 tuổi và 30 tuổi.

Viêm ruột thừa là một trong các nguyên nhân thường gặp nhất của bụng ngoại khoa cấp tính. Các triệu chứng và dấu hiệu thường theo một mô hình khá rập khuôn, nhưng viêm ruột thừa có thể biểu hiện đa dạng nên nó phải được xem xét trong chẩn đoán phân biệt từng trường hợp không rõ ràng về nhiễm khuẩn huyết và đau trong ổ bụng.

Các triệu chứng và dấu hiệu

Một cơn cấp phát viêm ruột thừa thường bắt đầu với đau thượng vị hoặc quanh rốn kết hợp với một hoặc hai đợt nôn. Trong vòng 1 - 2 giờ, đau chuyển sang phần tư dưới bên phải bụng, ở đó tiếp tục như một chỗ đau nhức đều đều, đau tăng lên khi đi bộ hoặc ho. Có sốt nhẹ, chán ăn, khó chịu vừa phải. Táo bón thường xẩy ra, nhưng đôi khi tiêu chảy, buồn nôn và nôn cũng vậy.

Lúc bắt đầu không thấy các dấu hiệu khu trú song trong vòng vài ba giờ có thể xác định tăng cảm giác đau khi sờ nắn ở phần tư dưới bên phải bụng. Bệnh nhân thường chỉ một cách chính xác ngón tay vào vùng này, đặc biệt làm rõ chỗ đau bằng cách ho. Gõ nhẹ vào phần tư dưới bên phải bụng giúp định rõ vị trí đau. Thường có cảm giác đau nấy lại và đau thắt các cơ bụng nằm ở trên. Các dấu hiệu cơ thắt lưng và cơ bịt, khi dương tính, gợi ý nhiều về viêm ruột thừa. Tăng cảm giác đau trực tràng là thường gặp trong viêm ruột thừa khoang chậu, có thể rõ ràng hơn là tăng cảm giác đau bụng. Nhu động ruột giảm hoặc mất. Có sốt nhẹ tới trung bình.

Các phát hiện labo

Tăng bạch cầu vừa phải (10.000 - 20.000/µl) và thường có tăng bạch cầu trung tính. Không hiếm khi thấy có đái máu và đái mủ qua soi hiển vi.

Ghi hình ảnh

Không có thay đổi đặc biệt trên phim X quang . Tuy nhiên, việc nhìn thấy ở phần tư dưới phải bụng một bóng cản quang phù hợp với sỏi phân trong ruột thừa có thể làm tăng nghi ngờ viêm ruột thừa. Trong những ca không chắc chắn, thụt barit được sử dụng vì việc nhìn rõ được toàn bộ ruột thừa sẽ loại trừ viêm ruột thừa cấp tính. Ghi âm ký vi tính thời gian cộng hưởng thực, chẩn đoán viêm ruột thừa và viêm ruột thừa biến chứng có độ nhậy 90% và độ đặc hiệu 98% với độ chính xác chung 96% - tốt nhất từng đạt được - và đã giảm tỷ lệ mở bụng không cần thiết.

Các yếu tố gây nên các biến thế khác với hình ảnh lâm sàng "điến hình"

Vị trí giải phẫu của ruột thừa

Các phát hiện ở bụng được chắc chắn nhất khi ruột thừa ở trong hố chậu hoặc ở vị trí nông. Khi ruột thừa kéo dài qua vành khung chậu, các dấu hiệu bụng có thể tối thiểu vì tăng cảm giác đau được khai thác rõ nhất khi thăm trực tràng. Tăng cảm giác đau ở phần tư dưới phải bụng được khu trú kém và phát triển chậm trong viêm ruột thừa sau manh tràng hoặc sau hồi tràng. Viêm ruột thừa nằm cao ở bên bụng có thể gây ra tăng tối đa cảm giác đau ở mạn sườn và ở cung phần tư dưới trái bụng ở vị trí đảo ngược. Các vị trí bất thường của ruột thừa có thể hiếm xẩy ra, liên quan với manh tràng di động hoặc không xuống thấp; trong những trường hợp ấy, các triệu chứng và dấu hiệu có thể khu trú ở cung phần tư trên phải hoặc dưới trái.

Tuổi già

Các bệnh nhân già thường có ít hoặc không có tiền triệu. Các phát hiện ở bụng có thể không gây ấn tượng với tăng nhẹ cảm giác đau và phản ứng bảo vệ cơ không đáng kể trước khi xẩy ra thủng ruột. Sốt và tăng bạch cầu cũng ở mức tối thiểu hoặc không có. Khi đếm bạch cầu không tăng cao, sự chuyển dịch sang trái là bằng chứng quan trọng của viêm nhiễm.

Béo phì

Béo phì thường làm tăng sự khó khăn đánh giá do làm chậm các dấu hiệu bụng và ngăn cản sự định vị nhanh chóng.

Thai nghén

Chẩn đoán phân biệt

Viêm dạ dày ruột cấp tính là rối loạn rất hay nhầm lẫn với viêm ruột thừa. Trong những ca hiếm, nó có thể hoặc xẩy ra trước hoặc cùng thời gian với viêm ruột thừa. Nôn và tiêu chảy thường gặp hơn. Sốt và đếm bạch cầu có thể tăng lên đột ngột và có thể không cân xứng với các phát hiện ở bụng. Việc định vị đau và tăng cảm giác đau thường không dứt khoát và luôn di chuyển chỗ. Nhu động tăng là đặc biệt. Thường viêm dạ dày - ruột có đợt cấp tính. Một thời kỳ theo dõi nhận xét thường làm sáng tỏ chắn đoán.

Viêm hạch mạc treo có thể gây các triệu chứng và dấu hiệu giống như viêm ruột thừa. Song, thường có một vài đầu mối cho chẩn đoán đúng. Viêm hạch mạc treo thường hay xẩy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên; nhiễm khuẩn hô hấp là tiền sử bệnh thường gặp; định vị đau tăng khi sờ nắn ở cung phần tư dưới phải là kém chính xác và không cố định; ít khi thấy phản ứng bảo vệ thành bụng có thật sự. Mặc dù nghi ngờ nhiều về viêm hạch mạc treo, thường vẫn được khuyên cắt bỏ ruột thừa là an toàn hơn chấp nhận rủi ro biến chứng viêm ruột thừa do trì hoãn.

Viêm túi thừa Meckel có thể giống với viêm ruột thừa. Định vị của tăng cảm giác đau có thể ở vùng giữa bụng hơn nhưng đây không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán đáng tin cậy vì phẫu thuật đều cần cho cả hai bệnh, việc phân biệt không phải thật là quan trọng. Khi mổ thăm dò cho thấy chẩn đoán viêm ruột thừa trước mổ là lầm, điều thiết yếu là xem xét đoạn 150cm cuối của hồi tràng để tìm xem có viêm túi thừa Meckel và viêm hạch mạc treo hay không. Viêm ruột khu vực, bệnh amip, viêm hồi tràng do trực khuẩn giả lao Yersinia, ổ loét tá tràng thủng, cơn đau niệu quản, viêm ống dẫn trứng cấp tính, đau bụng do thuốc, vỡ vòi trứng do chửa ngoài tử cung, và u nang buồng trứng xoắn cũng có thể nhầm lẫn với viêm ruột thừa. Viêm phổi thùy dưới phải đôi khi liên quan với đau nổi bật ở cung phần tư dưới phải của bụng.

Biến chứng

Thủng

Viêm ruột thừa hiếm khi thuyên giảm đi một cách tự phát, nó là một bệnh không tiên đoán trước được với xu hướng rỗ rệt (khoảng 95%) bị tiến triển và thủng, vì thủng hiếm khi xẩy ra trong 8 giờ đầu, các theo dõi chẩn đoán trong thời kỳ này là tương đối an toàn. Các dấu hiệu thủng bao gồm đau và tăng cảm giác đau khi sờ nắn trở nên thêm trầm trọng, đau thắt ở cung phần tư dưới phải kèm theo bằng chứng về viêm màng bụng toàn bộ hoặc áp xe khu trú. Tắc ruột, sốt, khó chịu, tăng bạch cầu trở nên rõ rệt hơn. Nếu thủng với hình thành áp xe và viêm màng bụng toàn bộ đã xẩy ra trước khi bệnh nhân đến bác sĩ, chẩn đoán có thể khá khó khăn. Điều trị viêm ruột thừa thủng là cắt bỏ ruột thừa trừ phi một áp xe ở đúng cung phần tư dưới phải của bụng hoặc ở khung chậu đã được ngăn cách với ruột thừa. Các biện pháp hỗ trợ giống như đối với viêm ruột thừa.

(1) Viêm màng bụng toàn bộ. Các phát hiện lâm sàng và điều trị được thảo luận ở phần khác trong chương này.

(2) Áp xe ruột thừa. Khó chịu, nhiễm độc, sốt và tăng bạch cầu thay đổi từ tối thiểu lên đến rõ rệt. Thăm khám phát hiện một khối đau khi chạm vào ở cung phân tư dưới phải hoặc khung chậu. Các áp xe trong khung chậu có xu hướng lồi vào trực tràng hoặc âm đạo.

Các áp xe thường dễ thấy 2 - 6 ngày sau khi bắt đầu nhưng liệu pháp kháng sinh có thể trì hoãn sự xuất hiện. Áp xe ruột thừa đôi khi là dấu hiệu đầu tiên và duy nhất của viêm ruột thừa và có thể lầm lẫn với u ác tính của manh tràng, đặc biệt ở những người già, họ có thể có ít hoặc không có phản ứng toàn thân với nhiễm khuẩn.

Điều trị áp xe sớm bằng liệu pháp kháng sinh kết hợp (như ampicillin, gentamycin, và metronidazol hoặc clindamycin). Với chế độ điều trị này, áp xe thường sẽ tiêu tan. Cắt bỏ ruột thừa phải được thực hiện 6 - 12 tuần sau. Một áp xe tiến triển chậm trễ ở cung phần tư dưới phải của bụng phải được dẫn lưu ngay không chậm trễ. Áp xe khung chậu đòi hỏi dẫn lưu khi nó lồi vào trực tràng hoặc âm đạo và đã trở thành bập bềnh.

Viêm tĩnh mạch cửa

Viêm tắc tĩnh mạch mưng mủ của hệ cửa với áp xe gan là một biến chứng hiếm nhưng gây tử vong cao nhất do bệnh này. Phải nghi ngờ khi sốt nhiễm khuẩn, rét run, gan to và vàng da phát triển sau khi thủng ruột thừa. Liệu pháp kháng sinh phối hợp tăng cường với dẫn lưu ngoại khoa các, ổ áp xe được chỉ định.

Các biến chứng khác

Bao gồm áp xe dưới hoành và các ổ khác của nhiễm khuẩn huyết trong ổ bụng. Tắc ruột có thể do các chỗ dính gây nên.

Điều trị

Chăm sóc trước mổ

(1) Theo dõi để chẩn đoán. Trong vòng 8 - 12 giờ đầu, các triệu chứng và dấu hiệu của viêm ruột thừa thường là chưa chắc chắn. Trong các hoàn cảnh này, vấn đề thiết yếu là để một thời kỳ theo dõi sát. Bệnh nhân được để nằm nghỉ tại giường và không cho uống thuốc gì. Lưu ý: Không được cho các thuốc nhuận tràng khi nghi ngờ viêm ruột thừa hoặc bất kỳ thể nào của viêm màng bụng. Tránh dùng các thuốc ngủ nếu có thể, nhưng làm an thần bằng các tác nhân an thần thì không chống chỉ định. Các thăm khám bụng, trực tràng, đếm bạch cầu được nhắc lại định kỳ. Các phim ổ bụng và lồng ngực ở tư thế đứng thẳng phải coi là một phần của việc điều tra các vấn đề chẩn đoán khó khăn. Trong phần lớn các ca viêm ruột thừa, chẩn đoán được xác minh bằng sự khu trú các dấu hiệu vào phàn tư dưới bụng trong vòng 12 giờ sau khi bắt đầu có các triệu chứng.

(2) Đặt ống. Trước mổ, đặt một ống thông mũi - dạ dày nếu có viêm màng bụng hoặc nhiễm độc ở mức độ đủ để chứng tỏ rằng liệt ruột sau mổ có thể gây rắc rối. Ở những bệnh nhân như vậy, hút và rửa dạ dày nếu cần, và bệnh nhân được gửi đến phòng mổ với ống đặt tại chỗ.

(3) Dùng kháng sinh. Khi có phản ứng toàn thân rõ rệt với nhiễm độc nặng và sốt cao, việc cho các kháng sinh trước khỉ mổ là nên làm (thí dụ, chế độ thuốc nêu ở trên, tuy có nhiều khả năng lựa chọn).

Điều trị ngoại khoa

Trong viêm ruột thừa không biến chứng, cắt bỏ ruột thừa được thực hiện ngay khi sự mất cân bằng chất dịch và các rối loạn toàn thân quan trọng khác được chế ngự. Thường không cần chuẩn bị nhiều. Phẫu thuật sớm có tỷ lệ chết là một phần của 1%. Tỷ lệ biến chứng và chết liên quan với bệnh này phản ánh sự xuất hiện hoại thư hoặc thủng, mà phẫu thuật bị trì hoãn.

Điều trị cấp cứu không bằng ngoại khoa

Khi không có sẵn các cơ sở, trang bị phẫu thuật, hãy điều trị như là đối với viêm màng bụng cấp. Với chế độ điều trị này, viêm ruột thừa cấp tính có thể thuyên giảm và các biến chứng được giảm thiểu.

Tiên lượng

Với chẩn đoán chính xác và cắt bỏ ngoại khoa sớm, các tỷ lệ biến chứng và chết là tối thiểu. Sự trì hoãn chẩn đoán gây ra các tỷ lệ chết và biến chứng đáng kể nếu các biến chứng xẩy ra.

Các đợt cấp tái diễn luôn có thể xẩy ra nếu không cắt bỏ ruột thừa. Hiện nay không tồn tại "Viêm ruột thừa mạn tính".

Bài viết cùng chuyên mục

Chít hẹp trực tràng hậu môn, mất tự chủ và ung thư biểu mô tế bào vảy hậu môn

Các u này thường hiếm, chỉ bao gồm 1 phần trăm tất cả ung thư hậu môn và ruột kết, xuất huyết, đau, nổi u tại chỗ là những dấu hiệu thông thường nhất

Các loại Condylom hậu môn: mụn cóc sinh dục

Các mụn cơm sinh dục có khuynh hướng tái phát. Phải theo dõi bệnh nhân trong nhiều tháng và khuyên bệnh nhân báo cáo ngay nếu xuất hiện những tổn thương mới.

Sa và loét trực tràng, nứt, áp xe và đường rò hậu môn

Áp xe quanh hậu môn phải được coi là giai đoạn cấp tính của một đường rò hậu môn cho đến khi được chứng tỏ là không phải như vậy. Áp xe phải được dẫn lưu đầy đủ ngay khi nó khu trú lại.

Viêm hốc tuyến và viêm nhú, nhiễm khuẩn trực tràng hậu môn

Viêm trực tràng ruột kết là tổn thương lan ra ngoài trực tràng, nó bao gồm ít nhất là tới đại tràng sigma, Các nguyên nhân có thể là các nguyên nhân của viêm trực tràng

Bệnh trĩ

Trĩ nội là các tĩnh mạch bị giãn ở phần đám rối tĩnh mạch trực tràng nằm dưới niêm mạc ngay ở phía gần bờ răng cưa, Trĩ ngoại cũng phát sinh từ đám rối này

Ung thư ruột kết (đại tràng) trực tràng

Một tiền sử về polip u tuyến làm tăng nguy cơ các u tuyến tiếp sau và ung thư biểu mô, do đó cần được giám sát nội soi ruột kết thường kỳ

Các hội chứng polip đường ruột mang tính chất gia đình

Bệnh polip u tuyến trong gia đình là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thường mang tính trội, đưa đến sự phát triển hàng trăm tới hàng nghìn u tuyến ở ruột kết.

Các polip u tuyến đường ruột không mang tính chất gia đình

Phần lớn các bệnh nhân bị các polip u tuyến là hoàn toàn không triệu chứng. Mất máu kín đáo mạn tính có thể dẫn tối thiếu máu do thiếu sắt. Các polip to có thể loét ra, đưa đến đại tiện ra máu tươi từng đợt.

Chảy máu túi thừa ruột kết

Ở bệnh nhân bị xuất hụyết hoạt động, việc đánh giá cấp cứu hoặc chụp quét hống cầu đánh dấu chất phóng xạ 99mTc hoặc chụp mạch mạc treo phải được thực hiện.

Viêm túi thừa ruột kết

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng nhẹ đến nỗi bệnh nhân không tìm đến sự chú ý về y tế cho đến nhiều ngày sau khi bị đau ở cung dưới trái, và một khối sờ thấy ở bụng.

Bệnh túi thừa ruột kết không biến chứng

Các túi thừa được nhìn thấy rõ nhất khi thụt barit. Các đoạn ruột kết tổn thương cũng bị hẹp và biến dạng. Nội soi ruột kết là phương tiện kém nhậy bén để phát hiện túi thừa.

Giãn phình mạch đường ruột

Phần lớn các giãn phình mạch ruột kết là các tổn thương thoái hóa được giả thiết, là sinh ra do co cứng cơ ruột kết mạn tính, làm tắc sự dẫn lưu tĩnh mạch niêm mạc.

Bệnh Crohn

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào thân nhiệt của bệnh nhân, cân nặng, trạng thái dinh dưỡng, tăng cảm giác đau khi sờ chạm và nổi khối ở bụng, thăm khám trực tràng và những biểu hiện bên ngoài ruột.

Viêm ruột kết loét

Thăm khám lâm sàng phải tập trung vào tình trạng thể tích dịch của bệnh nhân như xác định bằng huyết áp ở thể đứng, đếm mạch, và trạng thái dinh dưỡng.

Bệnh viêm ruột

Bệnh Crohn là một bệnh mạn tính, tái phát do đặc điểm là niêm xuyên vách ruột từng mảng gây tổn thương ở bất kỳ đoạn nào của đường dạ dày ruột, từ miệng tối hậu môn.

Viêm ruột kết liên quan với kháng sinh

Tiêu chảy liên quan với kháng sinh là chuyện thường xẩy ra trong lâm sàng, đặc biệt hay gặp sau khi dùng các kháng sinh đặc hiệu như là ampicillin và clindamycin.

Hội chứng ruột kích ứng

Các rối loạn chức năng dạ dày ruột có đặc điểm là sự kết hợp khác nhau của các triệu chứng mạn tính hoặc tái phát không thề giải thích bằng các bất thường vê cấu trúc hoặc sinh hóa học.

Các u của ruột non

Các u lành tính có thể không có triệu chứng hoặc là sự phát hiện tình cờ khi phẫu thuật hoặc mổ xác. Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ.

Lao ruột: viêm ruột do lao

Các triệu chứng có thể không có hoặc tối thiểu ngay cả khi bệnh lan rộng, thường bao gồm sốt, chán ăn, buồn nôn, đầy hơi, căng trướng bụng sau ăn và không dung nạp thức ăn.

Bệnh Whipple (bệnh loạn dưỡng mỡ ruột) và bệnh ruột mất protein

Sự rò rỉ protein huyết tương vào ống ruột là một giai đoạn không thể thiếu của chuyển hóa các protein huyết tương, Trong một số trạng thái bệnh đường ruột

Thiếu men disaccharidase: hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát

Các bệnh cấp tính gian phát như là viêm ruột do vi khuẩn hoặc virus, đặc biệt ở trẻ em, sẽ thường gây tổn thương các vi nhung mao của các tế bào niêm mạc ruột non, dẫn đến thiếu lactase nhất thời.

Bệnh ỉa chảy mỡ và tiêu chảy (hội chứng kém hấp thu, bệnh niêm mạc ruột nguyên phát)

Mặc dầu chưa có chứng minh quyết định nguyên nhân nhiễm khuẩn, tiêu chảy nhiệt đới hoạt động về mặt lâm sàng giống như một bệnh nhiễm khuẩn. Nó đáp ứng với acid folic và các kháng sinh phổ rộng.

Tắc ruột chức năng và giả tắc ruột tự phát: tắc ruột vô lực, tắc ruột do liệt

Trướng bụng lan rộng và có thể trướng to với tăng tối thiểu cảm giác đau bụng không khu trú khi sờ, và không có các triệu chứng kích thích màng bụng trừ phi do bệnh nguyên phát gây ra.

Tắc ruột non thực thể cấp tính

Tắc ruột non thực thể cấp tính thường xẩy ra ở ruột non nhất là ở hồi tràng. Các nguyên nhân chủ yếu gây nên là thoát vị ra ngoài và các chỗ dính sau mổ.

Viêm túi thừa Meckel

Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh giống viêm ruột thừa cấp và tắc ruột cấp tính do viêm tụi thừa Meckel gây nên không thể phân biệt nổi với các quá trình nguyên phát trừ phi bằng cách thăm dò.

Các khối u dạ dày

Ung thư biểu mô dạ dày thường không có triệu chứng, cho đến khi bệnh đã tiến triển, các triệu chứng không đặc trưng và được xác định do vị trí của khối u.

Hội chứng Zollinger Ellison

Phải phân biệt hội chứng Zollinger - Ellison với các nguyên nhân khác gây tăng gastrin huyết. Viêm teo dạ dày với giảm tiết acid được phát hiện bằng phân tích dịch tiết của dạ dày.

Tắc đường ra của dạ dày

Các bệnh nhân có thể bị mất nước, nhiễm kiềm chuyển hóa và giảm kali huyết. Khi thăm khám lậm sàng, tiếng óc ách khi lắc bụng có thể nghe thấy ở vùng thượng vị.

Thủng ổ loét và ổ loét dạ dày tá tràng thâm nhập

Việc đóng lỗ thủng được thực hiện bằng một mành mạc nối. Trong nhiều trường hợp người ta thực hiện cắt dây phế vị ở phía gần của dạ dày để làm giảm khả năng tái phát ổ loét.

Xuất huyết dạ dày tá tràng

Hematocrit có thể hạ thấp do hậu quả chảy máu hoặc sự truyền bù thể tích nội mạch vào tĩnh mạch. Cân bằng nitơ urê huyết có thể lên cao do hậu quả hấp thu nitơ máu từ ruột non và tăng urê huyết trước thận.

Bệnh loét tiêu hóa:

Ba nguyên nhân chủ yếu của bệnh loét tiêu hóa ngày nay được công nhận: các thuốc kháng viêm không steroid, nhiễm khuẩn H. pylori mạn tính, và các trạng thái tăng tiết acid như là hội chứng Zollinger - Ellison.

Các loại viêm dạ dày đặc trưng

Các ấu trùng của ký sinh vật Anisakis marina do ăn cá sống hoặc bánh gỏi cá rau có thể ăn sâu vào niêm mạc dạ dày và gây đau bụng nhiều. Đau dai dẳng trong vài ngày cho đến khi các ấu trùng chết.

Viêm dạ dày không ăn mòn không đặc trưng

Chẩn đoán viêm dạ dày mạn tính dựa trên lượng giá mô học các sinh thiết niêm mạc, Các phát hiện nội soi trong nhiều trường hợp là bình thường

Viêm dạ dày ăn mòn hoặc xuất huyết

Viêm dạ dày ăn mòn thường không có triệu chứng. Khi chúng xuất hiện, các triệu chứng gồm chán ăn, buồn nôn, nôn và đau thượng vị. Có ít tương quan giữa các triệu chứng này với các bất thường thấy ở nội soi.

Đau ngực không rõ căn nguyên:

Bệnh này phải được xét đến ở bệnh nhân có mạch đồ của mạch vành bình thường khi làm các test chịu đựng có kết quả bất thường. Nhiều rối loạn khác như bệnh thấp, dạ dày - ruột và tâm thần có thể liên quan với hội chứng này.

Thực quản xơ cứng bì và các rối loạn tính di động khác

Các rối loạn này bao gồm thực quản hình cái kẹp vỏ hạt dẻ, tăng áp lực cơ thắt thực quản dưới, và các bất thường về di động không đặc trưng

Co thắt thực quản lan tỏa

Khó nuốt có thể do stress, khối thức ăn to, các chất lỏng nóng hoặc lạnh. Các bệnh nhân cũng có thể nhận thấy đau trước ngực, có thể lẫn với cơn đau thắt ngực nhưng thường không do gắng sức.

Không giãn co thắt thực quản dưới

Các triệu chứng thường phát triển ở các bệnh nhân ở độ tuổi 25 và 60. Các bệnh nhân phàn nàn dần dần bắt đầu khó nuốt thức ăn đặc và, một số lớn, cả thức ăn lỏng nữa.

Các tổn thương ác tính ở thực quản

Tổn thương thanh quản tái phát có thể làm khàn tiến. Khám thực thể thường không phát hiện gì. Sự có mặt của hạch lympho trên xương đòn hoặc cổ, hoặc của gan to chứng tỏ gián tiếp là bệnh đã di căn.

Giãn tĩnh mạch thực quản

Đếm máu toàn bộ, đếm tiểu cầu, thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin cục bộ, các test chức năng gan, các điện giải huyết thanh, và albumin huyết thanh phải được thực hiện cho mọi bệnh nhân.

Túi thừa và các khối u lành tính thực quản

Các u lành tính của thực quản hoàn toàn hiếm. Chúng nằm dưới viêm mạc, và thường gặp nhất là u cơ trơn. Phần lớn không gây triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi làm nội soi hoặc chụp thực quản với barit.

Vòng đai Schatzki và các mang thực quản

Các mang là các màng mỏng của niêm mạc vẩy xẩy ra một cách đặc trưng ở vùng giữa hoặc trên của thực quản. Chúng hiếm khi làm thành đường vòng tròn quanh chu vi.

Hội chứng Mallory Weiss: vết rách niêm mạc chỗ nối dạ dày thực quản

Các bệnh nhân thường bộc lộ nôn ra máu cùng với hoặc không có đại tiện máu đen. Một lịch sử quá khứ về nôn, nôn khan hoăc cố gắng rặn được khai thác trong khoảng 50% các trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc viên và tổn thương ăn mòn ở thực quản

Nội soi có thể phát hiện một hoặc nhiếu ổ loét riêng rẽ có thể nông hoặc sâu, Tổn thương mạn tính có thể đưa đến viêm thực quản nặng với chít hẹp, xuất huyết hoặc thủng

Viêm thực quản nhiễm khuẩn

Các triệu chứng thông thường nhất là nuốt đau và khó nuốt. Đau ngực dưới xương ức xẩy ra ở một số bệnh nhân. Các bệnh nhân viêm thực quản do nấm candida đôi khi không có triệu chứng.

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản là thuật ngữ dùng cho các triệu chứng hoặc tổn hại các mô do dòng trào ngược các dung lượng dạ dày (thường là acid) đi vào thực quản gây ra.

Đánh giá các rối loạn thực quản

Các bệnh nhân bị tắc cơ giới cảm thấy khổ nuốt, chủ yếu là chất đặc. Điều này luôn tái phát, đoán trước được và nếu tổn thương tiến triển, sẽ xấu đi vì vòng thực quản hẹp lại.

Sốt địa trung hải gia đình

Điều trị triệu chứng và hỗ trợ. Chế độ ăn có ít mỡ có thể làm giảm số lần và độ nặng các cơn kịch phát. Cho hàng ngày uống colchicin 0,6 - 1,8 mg làm giảm rõ rệt số các cơn kịch phát.

Viêm màng bụng cấp

Viêm màng bụng khu trú hoặc toàn bộ là biến chứng quan trọng nhất của rất nhiều rối loạn cấp tính vừng bụng. Nhiễm khuấn hoặc kích thích hóa học có thể gây ra viêm màng bụng.

Xuất huyết dạ dày ruột kín đáo

Đánh giá ruột non thường không cần thiết ở phần lớn các bệnh nhân, với test máu kín đáo ở phân dương tính hoặc thiếu máu do thiếu sắt, có đánh giá âm tính về ruột kết và đường dạ dày - ruột trên.

Xuất huyết cấp tính đường dạ dày ruột dưới

Một số thể bệnh có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa dưới. Khả năng xẩy ra các tổn thương này một phần phụ thuộc cả vào tuổi bệnh nhân lẫn bản chất và độ nặng của xuất huyết.

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính

Xuất huyết đường dạ dày ruột trên cấp tính có thể từ nhiều nguồn gốc. Các nguồn này được liệt kê dưới đây theo thứ tự số lần chúng gây ra xuất huyết đáng kể.

Tiêu chảy mạn tính

Một khoảng trống thẩm thấu xác nhận tiêu chảy thẩm thấu. Độ thẩm thấu phân thấp hơn độ thẩm thấu huyết thanh gợi ý rằng nước hoặc nước tiểu đã được cộng thêm vào mẫu (tiêu chảy giả tạo).

Tiêu chảy cấp tính

Ở trên 90% bệnh nhân tiêu chảy cấp tính thấy bệnh nhẹ và tự khỏi, đáp ứng trong vòng 5 ngày với liệu pháp tiếp nước đơn giản hoặc các tác nhân chống tiêu chảy.

Hơi dạ dày ruột

Các trạng thái lo âu thường liên kết với thở sâu và thở dài, do đó nuốt vào một lượng không khí lớn. Việc nhai kẹo cao su góp phần vào việc nuốt hơi.

Táo bón

Các bệnh nhận mà táo bón không thể quy cho những nguyên nhân trên và không đáp ứng với việc xử lý bảo tồn vì ăn uống có thể đưa ra các vấn đề xử lý khó khăn

Nấc

Khi nguyên nhân vẫn còn chưa rõ, thử nghiệm thêm gồm chụp cắt lớp vi tính lồng ngực và bụng, siêu âm tim, nội soi phế quản và nội soi phần trên đường dạ dày - ruột.

Buồn nôn và nôn

Trong nôn cấp tính, chụp X quang bụng tư thế nằm và đứng được thực hiện cho các bệnh nhân đau dữ dội hoặc nghi là tắc ruột cơ học để tìm hơi trong khoang bụng hoặc các quai ruột non giãn to.

Chứng khó tiêu

Các triệu chứng của các bệnh nhân này có thể sinh ra do sự tương tác phức tạp của các nhân tố tâm lý, sự nhận thức đau nội tại bất thường và rối loạn di động dạ dày.