- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Có vảy khô trên nền da đỏ
Khu trú ờ đầu, vùng giữa mặt, vùng xương ức, giữa hai xương bả vai, rốn và các nếp gấp.
Đánh giá chung
Viêm da tiết bã nhờn là một bệnh viêm da bong vảy và có sẩn, cấp tính hoặc mạn tính. Bệnh có xu hướng thiên về di truyền với sự tác động qua lại của các yếu tố như hormon, dinh dưỡng, viêm nhiễm, và sang chân về tinh thần. Bệnh đáp ứng điều trị với thuốc chống nấm ketoconazol đã đưa ra một khả năng: viêm da tiết bã nhờn là biểu hiện phản ứng viêm đối với pityrosporum ovale có ở da tiết bã nhờn của con người. Tuy nhiên, tác dụng của ketoconazol ở trong bệnh này không phải do tác dụng chống nấm đơn thuần.
Lâm sàng
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương. Đỏ da, nứt da, nhiễm khuẩn thứ phát có thể gập. Ở bệnh nhân Parkinson, bệnh viêm da bã nhờn thường tiến triển một cách nặng vừa, cũng giống như những người già ốm cấp và phải vào nằm viện vì những nguyên nhân khác. Các thương tổn viêm da bã nhờn trên bệnh nhân HIV thường lan rộng ra toàn cơ thể, hoặc biểu hiện là những mảng thương tổn có ranh giới rõ.
Chẩn đoán phân biệt
Thường có một loạt các hình ảnh lâm sàng từ gầu đơn thuần đến viêm da tiết bã nhờn rồi đến vảy nến ở da đầu. Ở da đầu, khi thương tổn là các dát đỏ ranh giới rõ rệt, thường cho là vảy nến, và khi đỏ da lan toả nhưng không có vảy dày, trắng thường gọi là viêm da tiết bã nhờn, nếu chì có ít vảy da đơn thuần, không có đỏ da thì thường gọi là gàu. Điều trị cả ba bệnh này thường phải dựa vào sự nặng nhẹ của bệnh. Viêm da tiết bã nhờn lan rộng có thể giống bệnh viêm kẽ ở các nếp gấp, nhưng khi có thương tổn ở mặt, đầu, và xương ức gợi ý bệnh viêm da tiết bã nhờn. Nhiễm nấm, không giống viêm da đầu, rất hiếm khi có thương tổn ở lông mày, ở da đầu phía sau tai, và rãnh mũi má. Vảy da nấm tóc cũng rất giống gàu hoặc viêm da tiết bã nhờn, vì vậy nên làm xét nghiệm soi tươi và nuôi cấy tìm nấm nếu có rụng tóc, đặc biệt ở trẻ nhỏ.
Điều trị
Thương tổn ờ da đầu
Bác sĩ nên giới thiệu một vài loại shampoo và để bệnh nhân quyết định loại nào là loại phù hợp nhất. Loại shampoo có chứa hắc ín, kẽm pyrithion, hoặc selenium đều có thể được dùng hàng ngày, trong khi ketoconazol shampoo chỉ dùng 2 lần/tuần. Sau đó thấy cần thiết, có thể dùng dung dịch hoặc thuốc xức tóc có chứa corticosteroid (pha chế 60ml), và dùng 2 lần/ngày từng đợt để tránh miễn dịch nhanh. Teo đa đầu ít gặp trừ trường hợp bệnh nhân có rụng tóc. Có thể thay đổi dùng FS shampoo (có fluocinolon) trong vài tuần. Đối với trường hợp không đáp ứng điều trị có thể dùng dịch treo selenium sulfide 2,5% 1 lần như shampoo. Bệnh nhân nên được giới thiệu cách dùng shampoo mạnh: lần đầu gội không dùng móng tay gãi, rồi gội shampoo lần hai, lần này để shampoo 10 phút để bong vảy.
Thương tổn ở mặt
Nên dùng các loại xà phòng nhẹ như dùng trong bệnh chàm thể tạng để không gây kích thích da. Người ta cho rằng điều trị thương tổn ở đầu, nếu có, thì sẽ làm giảm thương tổn ở mặt. Điều trị cơ bản là bôi corticosteroid nhẹ (hydrocrtison, aclometason, đôi khi dùng desonid) dùng từng đợt và tránh vùng mắt. Nếu dùng fluorinat corticosteroid mạnh một cách đều đặn thì sẽ gây trứng cá đỏ hoặc teo da và giãn mạch. Thường rất ít khi chỉ định cho viêm da tiết bã nhờn. Nếu như bệnh không thể kiểm soát được bằng thuốc bôi steroid từng đợt, có thể dùng kem ketoconazol (Nizoral) 2% 2 lần/ngày và bệnh sẽ thuyên giảm sau hơn 4 tuần.
Thương tổn ở vùng không có tóc
Dùng kem steroid nhẹ hydrocotison 1% hoặc 2,5%, desonid, aclometason dipropionat là những thuốc có hiệu quả cao.
Thương tổn ở vùng kẽ
Nên tránh các loại mỡ nhờn. Bôi dung dịch hoặc kem steroid nhẹ 2 lần/ngày trong 5 - 7 ngày rồi duy trì 1 lần/ngày trong 2 tuần khi cần thiết. Ketoconazol shampoo có thể dùng phụ trợ.
Thương tổn ở bờ mi
Viêm bờ mi thường đáp ứng bằng cách dùng shampoo Johnson and Johnson rửa nhẹ nhàng bờ mi vào tối hằng ngày.
Tiên lượng
Bệnh tái đi tái lại suốt cuộc đời. Mỗi lần bùng nổ kéo dài hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng năm.
Bài viết cùng chuyên mục
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Hồng ban ly tâm mãn tính
Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
U mềm lây: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
