Ung thư sắc tố

2016-06-11 01:28 PM

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Các yếu tố thiết yếu cho chấn đoán

Thương tổn có thể phẳng hay nổi cao hơn mặt da.

 Nên nghi ngờ tất cả các thương tổn sắc tố đang có sự thay đổi.

Khám ở nơi có đủ ánh sáng để phát hiện được các màu sắc khác nhau trên thương tổn như màu đỏ, trắng, đen, xanh.

Bờ không đều.

Đánh giá chung

Ung thư sắc tố là nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các bệnh của da. Năm 1994 ở Hoa kỳ có 32.000 ca ung thư sắc tố, đứng thứ 9 trong các loại ung thư thường gặp và trong đố có 7.000 ca tử vong. Mặc dù bệnh ung thư sắc tố thường dễ chẩn đoán và điều trị khỏi trong giai đoạn sớm, thế nhưng tỉ lệ chết của bệnh nhân nam người Cap-ca-zơ lại tăng từ 2,2 lên tới 3,3 trên 100.000 dân số từ năm 1973 đến 1988, và đối với nữ tỉ lệ đó tăng từ 1,4 lên 1,7 trên 100.000 dân số. TỈ lệ cứu sống tăng từ 60% trong thời gian 1960 -1963 lên tới 84% năm 1983 -1989. Nhưng tỷ lệ cứụ sống ở châu Phi chỉ là 77% năm 1983-1989, có lẽ do chẩn đoán muộn.

Yếu tố tiên lượng bệnh quan trọng và duy nhất là sự thâm nhiễm (phân loại của Clark) hoặc độ dày của u (phân loại của Breslow). Tỉ lệ cứu sống 5 năm dựa vào độ dày của khối u được tính bằng mm như sau:

< 0,76mm tỉ lệ cứu sống 5 năm là 99%.

0,76 - 1,49mm 95%.

1,5 - 2,49mm 84%.

2,5 - 3,99mm 70%.

> 4mm 44%.

Nếu có di căn hạch 30%.

Nếu di căn xa < 10%.

Những thống kê này chỉ là những điều chú ý chung, vì những trung tâm ung thư sắc tố có thể tiên lượng bệnh một cách chính xác hơn dựa vào sự thâm nhiễm, vị trí thương tổn, hình ảnh giải phẵu bệnh, và giớí tính của bệnh nhân.

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác. Có xu hướng xẩy ra ngày càng tăng ở người trẻ tuổi. Tuy nhiên do nhận thức tăng, nên ngày nay hầu hết ung thư sắc tố đã và đang được chẩn đoán ở giai đoạn sớm.

Lâm sàng

Ung thư sắc tố nguyên phát có thể được phân thành nhiều loại:

Ung thư sắc tố từ nốt ruồi.

Ung thư sắc tố bề mặt: là loại hay gặp, chiếm 2/3 bệnh nhân.

Ung thư sắc tố dạng u.

Ung thư sắc tố đầu chi từ nốt ruồi: xuất phát từ lòng bàn tay, lòng bàn chân, và nền móng.

Ung thư sắc tố niêm mạc.

Thể linh tinh khác: như ung thư sắc tố nhưng không có màu có nguồn gốc từ bớt xanh (hiếm gập), bớt bẩm sinh vấ từ bớt tế bào khổng lồ.

Trong khi ung thư sắc tố bề mặt hay gặp ở người Cap-ca-zơ, thì ở vùng khác lại có nguy cơ mắc các thể khác, đặc biệt là ung thư sắc tố đầu chi từ nốt ruồi. Loại này thương tổn thường đen, đôi khi thương tổn có hình thù không đều ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và khi thương tổn ở giai đoạn đầu thì chi là một đường dọc màu đen, lan rộng ở móng. Ung thư sắc tố đầu chi rất khó chẩn đoán bởi vì các thương tổn sắc tố rất hay xảy ra ở tay, chân và móng của những người da màu mà bác sĩ lại rất lưỡng lự cho làm sinh thiết ở những nơi đố. Kết quả là thường chẩn đoán muộn khi u đã to nhanh. Các bác sĩ nên đặc biệt chú ý tới những thương tổn mới hoặc thương tổn thay đổi ở những vùng này.

Những ung thư sắc tố thực sự rất khác nhau từ dát tới u, với nhiều màu sắc từ màu đỏ đồng tới màu đen và thường lẫn lộn nhiều màu như màu trắng, xanh, tím và đỏ. Bờ có xu hướng không đều, tiến triển có thể nhanh hoặc âm ỉ. Ung thư sắc tố bề mặt thường > 6mm, nhưng ung thư sắc tố dạng u thỉ nhỏ hơn. Một lần nữa, chúng ta nên xem xét thương tổn dựa vào các u sắc tố nghi ngờ hơn là chẩn đoán muộn khi chẩn đoán đã quá rõ ràng.

Điều trị

Điều trị bằng cách phẫu thuật cắt bỏ. Sau khi đã có chẩn đoán bằng giải phẫu bệnh. Vùng phẫu thuật dựa vào kích thước khối u. Phẫu thuật bờ rộng (> 5cm bán kính) thường ít được chỉ định.

U sắc tố loại nhỏ và mảng hoặc loại trung bình yêu cầu cắt rộng cách bờ 1 - 3cm.

U sắc tố tại chỗ chỉ định cắt rộng cách bờ 0,5cm. U sắc tố có độ dày < 1mm thì thường cắt rộng cách bờ 1cm.

Phẫu thuật hạch lympho có chọn lọc khi chưa có biểu hiện lâm sàng đang còn tranh cãi nhiều. Nói chung, phẫu thuật hạch lympho được chỉ định đối với u sắc tố loại trung bình và thường cắt bỏ cả chuỗi lympho. Phẫu thuật hạch có chọn lọc không được chỉ định đối với u < 1mm.

Các trung tâm ung thư sắc tố đã đưa ra hướng tiên lượng đặc biệt, ủng hộ về mặt tâm lý, và đưa ra phương pháp các điều trị mới như là cách ly truyền dịch bờ thương tổn, levamisole và interleukin - 2.

Bài viết cùng chuyên mục

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Ngứa: chẩn đoán và điều trị

Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị

Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.